KHUYNH HƯỚNG TÌM NHÀN
TRONG THƠ
THÁI QUỐC MƯU
Khuynh hướng thích sống nhàn đã
có từ thời xa xưa trong văn thơ. Từ thời Đường bên Trung Quốc có bài thơ “Nhàn”
của Bạch Cư Dị lưu truyền đến nay một thái độ sống bình an tự tại để hưởng niềm
vui.
Ở Việt Nam ta, nhàn là cách muốn
sống quen thuộc của nhà Nho xưa, thường là bởi một lý do nào đó như chán ngán
con đường hoạn lộ, bất đắc chí vì thời cuộc đổi thay hay đã trả xong nợ sách
đèn nên tìm thú hưởng nhàn bằng cách tránh xa thực tại, tìm vui trong thiên
nhiên.
Thời Trần, nhà thơ Nguyễn Bỉnh
Khiêm xa lánh bả vinh hoa, tìm nhàn trong vui thú điền viên như cày cuốc, đi
câu, gần gủi với thuyết vô vi của đạo Lão. Nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng ký gởi
tâm trạng mình trong các bài thơ Thu Ẩm, Thu Điếu, Thu Vịnh để tìm quên thế sự
trong cảnh thanh nhàn giữa cảnh vật thiên nhiên. Nguyễn Công Trứ cầu nhàn hưởng
lạc trong những thú tiêu khiển khi còn đang tại chức và ngao du sơn thuỷ tìm
nhàn khi nợ kẻ sĩ trả xong.
Ngày nay giữa thế kỷ 21, nhà thơ
Thái Quốc Mưu cũng có khuynh hướng nhàn được thổ lộ trong bài thơ “Tìm Nhàn”.
Thử đi vào bài thơ “Tìm Nhàn” của ông để để suy nghiệm thêm về cái lý do và cái
ý muốn nhàn của nhà thơ thời đương đại:
Tìm Nhàn
Cuộc sống suy ra khổ luỵ nhiều
Cái tình nồng ấm chẳng bao nhiêu
Chi bằng lên núi đùa mây gió
Hoặc giả ra sông ngắm nắng chiều
Nhật nhật trần gian thường tự tại
Thời thời cực lạc tất tiêu diêu
Thư nhàn vui với câu thơ phú
Gác gối… cùng ta lẩy, luận Kiều.
Như trên đã nói các nhà thơ thời
xưa có khuynh hướng hưởng nhàn vì ảnh hưởng thuyết vô vi của Lão giáo, đồng
thời trong cuộc đời gặp sự cố bất bình, từ đó sinh ra yếm thế.
Hai câu thơ nhập đề trong bài thơ
“Tìm Nhàn’ của Thái Quốc Mưu chưa tìm thấy bị ảnh hưởng bởi đạo Lão nhưng tư
tưởng yếm thế cũng đã bộc lộ rỏ ràng khi cho cuộc sống là khổ luỵ và tình người
chẳng nồng ấm bao nhiêu!
Thật thế, ngày nay con người bị
quay cuồng chạy theo vật chất vì đòi hỏi của sự sống cần quá nhiều nhu cầu bức
thiết. Con người càng văn minh thì mức sống vật chất càng cao, từ đó tinh thần
bị suy giảm làm cho tình người bị giá lạnh đi. Chữ “khổ luỵ’ mà nhà thơ Thái
Quốc Mưu đã nói nó thiên về phần tinh thần hơn phần vật chất vì câu thơ kế tiếp
bổ nghĩa cho câu thơ trên là “cái tình nồng ấm chẳng bao nhiêu”. Chủ nghĩa cá
nhân của phương tây càng ngày càng phát triển đem lợi ích là quyền tự do cá
nhân được tôn trọng nhưng nó càng khiến loài người trở nên ích kỷ, khô khan
tình yêu thương đồng loại, tha nhân.
Khi Thái Quốc Mưu nói “Cái tình
nồng ấm chẳng bao nhiêu” ông không đặt cá nhân mình vào sự bất mản vì bị thua
thiệt ở đời mà ta thấy tác giả nhấn mạnh chữ “Cuộc sống” nghĩa là chỉ vào sự
suy thoái đạo đức chung của con người trong xã hội ngày nay. Khác với một Thái
Quốc Mưu thường lên trời hay xuống địa ngục, luôn luôn kiên cường, dè biểu, tố
cáo cái xấu, mong muốn sửa chửa con người một cách tích cực thì ở bài thơ nầy
ông tỏ ra tiêu cực, lánh xa sự náo nhiệt, tìm nơi ở đem sự bình lặng cho mình:
Chi bằng lên núi đùa mây gió
Hoặc giả ra sông ngắm nắng chiều
Hai chữ “chi bằng” và hai chữ
“hoặc giả” cho ta thấy lên núi và ra sông không phải là điều ông thật sự mong
muốn. “Đùa mây gió”, “ngắm nắng chiều” chẳng qua chỉ là bất đắc dĩ mà thôi. Ta
thấy khác với các nhà thơ xưa, cái tinh thần vô vi của đạo lão không có sẵn
trong Thái Quốc Mưu, mà ở đây, cái tinh thần dấn thân trong cuộc đời có sẳn
trong ông bị ngưng trệ trong một vài phút giây xuống tinh thần sinh ra yếm thế.
“Đùa mây gió”, “ngắm nắng chiều” với Thái Quốc Mưu không phải để tu thân, không
phải để hoà nhập với đất trời như chính nó, mà chỉ là cách quay lưng lại, tạm
quên cuộc đời nhọc nhằn khổ luỵ mà thôi. Tất nhiên các nhà nho xưa cũng chán
đời mới tìm nhàn nhưng chữ “nhàn” đối với họ là con đường giải thoát còn chữ
“nhàn” ngày nay của Thái Quốc mưu là con đường thư giản tìm quên, không phải là
cứu cánh.
Qua hai câu luận của bài thơ
“Nhật nhật trần gian thường tự tại / Thời thời cực lạc tất tiêu diêu” được giải
nghĩa là “Ngày ngày trần gian mà ung dung tự tại thì khi chết sẽ tiêu diêu miền
cực lạc” và hai câu kết “Thư nhàn vui với câu thơ phú /Gác gối…cùng ta lẩy,
luận Kiều” cho thấy phong cách hưởng nhàn của nhà thơ ung dung và tự tại nhưng
chung quy vẫn chưa thoát hẳn ra ngoài vòng tục luỵ. Chưa thoát hẳn ra vì
sao?
Đọc bài thơ “Nhàn” của Nguyễn
bỉnh Khiêm ta thấy tác giả thoát hẳn vòng danh lợi, lui về ở ẩn và sống lao
động, ăn uống giữa thiên nhiên và sự thật ông đã làm như thế:
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ao vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao
xao
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tợ chiêm bao.
Ngược lại đọc bài thơ “Tìm Nhàn”
của Thái Quốc Mưu ta biết đó chỉ là ước mơ trong khi ông vẫn sống, làm việc
trong “cuộc sống suy ra khổ luỵ nhiều” nầy. Ở một bài thơ “Tìm Nhàn” khác, khẳn
định cái quan niệm hưởng nhàn của nhà thơ như là một nguồn vui mới thanh nhã
hơn nhưng vẫn dấn thân và năng động:
Vinh nhục bao phen đã đủ rồi
Dại gì ta chẳng chịu vui chơi
Lên non đùa giỡn cùng hoa bướm
Tắm biển tung tăng với nắng trời
Vẩy gió đùa mây trêu ã nguyệt
Căng bườm lướt sóng vượt ngàn
khơi
Lên đèn, vung bút làm thơ phú
Nghiêng gối chung chăn với bạn
đời.
Tóm lại ta nhận thấy cái quan
diểm hưởng nhàn của nhà thơ Thái quốc Mưu là sự chắc lọc tinh hoa của tư tưởng
người xưa cọng thêm tư duy của mình trong hoàn cảnh thực tế ngày nay. Hoàn cảnh
thực tế không cho nhà thơ hành đạo như các tiên ông xuất thế, quên đời, hoà
mình trong cõi thiên nhiên. Vì vậy, thơ là sự thăng hoa ước muốn của tâm hồn
mình.
Cái hay trong thơ “Tìm Nhàn” của
Thái Quốc Mưu là nhà thơ không thánh hoá mình như tiên ông đạo cốt. Đọc thơ ta
không thấy cái cao siêu giả tạo của hạng người lộng ngôn chỉ tu thân trên miệng
lưởi của mình. Đọc thơ ta thấy con người thật của Thái Quốc Mưu vẫn còn lấm bụi
trần nhưng lòng trần của ông luôn ao ước những điều cao đẹp .
Thơ “Tìm Nhàn” của Thái Quốc Mưu
cũng thể hiện cho tâm tư của nhiều bậc trí giả ngày nay, ước mơ một vùng bình
yên để nghỉ dưởng tâm hồn nhưng dễ đâu mà có được ./.
Châu Thạch
Đà Nẵng, ngày 1/9/2014
THĂM HỎI BẠN
Lâu ngày tình…tệ chẳng ra sao !
Vắng bặt không nghe tiếng gọi
chào
Có phải trùm chăn lo bão nổi
Hay đang sợ lũ quyét bờ bao ?
Mắc theo đạo sĩ thăm rừng trúc
Bận gặp tiên nga viếng động đào ?
Chớ bảo rằng ta không nhớ bạn
Trông chờ tin nhạn dạ nao nao
Nhân tình lạnh nhạt biệt âm hao
Thế giới bao la lạc chỗ nào ?
Chắc ẩn am mây tu khổ hạnh
Hay nương lều cỏ sống thanh cao ?
Đã vào cõi tạm nhiều cay đắng
Chẳng trách đời hư thiếu ngọt
ngào
Nắn nót viết thơ trao tới bạn
Đừng cười sáo sậu hót xôn xao
Lý Hiểu
VA,09/2014
No comments:
Post a Comment