Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Saturday, December 27, 2025

PHÂN TÍCH BÀI THƠ “NGÀY TRỞ VỀ” CỦA KHÊ GIANG - Phạm Cảnh Thượng

  

Nhà thơ Khê Giang

Phân tích bài thơ

“NGÀY TRỞ VỀ” của KHÊ GIANG

Phạm Cảnh Thượng

 

Khi xem thơ đọc thơ, thỉnh thoảng chúng ta bắt gặp những bài thơ không chỉ hay mà còn có độ khái quát rất cao về một vấn đề, một đề tài nào đấy. Mình thường gọi đó là những bài thơ vừa đẹp vừa tròn. Ví dụ để diễn tả, diễn đạt tình yêu tha thiết, nỗi nhớ dạt dào của một người con xa xứ đối với quê hương, thì bài thơ “Ngày trở về” của nhà thơ Khê Giang là một ví dụ tiêu biểu về điều vừa nói.

Có lẽ rất nhiều người nghĩ rằng thơ lục bát là thể thơ “dễ làm” nhất. Chắc là đúng. Nhưng để một bài lục bát đạt tầm cao, xứng đáng để gọi là “thơ” đúng nghĩa, thì là chuyện hoàn toàn khác. Nghĩa là thơ lục bát dễ làm thật. Nhưng để hay thì rất khó.

Có những câu lục bát, bài lục bát kiểu bình dân. Trong khi lại có những áng thơ lưu danh sử thi muôn đời, ví dụ Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du, cũng là dưới dạng thể thơ lục bát.

Còn bây giờ, mời bạn đọc thưởng thức và thử nhận xét, phân tích bài lục bát của Khê Giang xem sao nhé :

“Tôi về thăm lại bến xưa.

Lặng nghe ký ức lụt bờ tháng năm.

Sông quê vẫn tắm nắng vàng.

Con đò vẫn chở ngày sang phía … chờ”

Chỉ sau vỏn vẹn một câu vào đề thôi, rất rõ ràng và tự nhiên. Tự nhiên và dung dị như một lời kể. Có lẽ cốt yếu kể cho chính mình nghe nhiều hơn là kể với mọi người: “Tôi về thăm lại bến xưa”, qua câu thứ 2 trở đi là đã bộc lộ một loạt rất nhiều cái hay của nghệ thuật thơ. Có lẽ bạn đọc nào cũng phải trầm trồ thích thú với 4 chữ “lụt bờ tháng năm”.

Xem thời gian là một dòng chảy, như dòng sông thì chắc không còn cách nào hay và chính xác hơn được nữa. Dòng sông thì phải có bờ, bờ sông thì bình thường nhưng “bờ tháng năm” thì độc đáo quá. Đúng không nào ?

Ngay hình ảnh “bến xưa” trong câu đầu tiên thôi cũng đã rất gợi cảm và gợi mở nhiều điều. Đó có thể là nghĩa đen bến sông xưa, cũng có thể nghĩa bóng là bến bờ của ký ức, của kỷ niệm. 3 câu tiếp sau là một loạt hình ảnh mang tính đặc tả và biểu tượng rất tiêu biểu : bến xưa - sông quê - nắng vàng - con đò. Được liên kết bằng 3 từ : lụt - tắm - chở.

Chính 3 từ rất đắt này là hồn cốt nghệ thuật. Đồng thời tạo nên sự gắn kết logic, rất chặt và dính cho khổ thơ đầu tiên. Cộng thêm 2 chữ “phía … chờ” khá lạ tai, gợi ra một “lối mở”, một cánh cổng mở không thể đẹp hơn, mời gọi hơn, để dẫn dắt người đọc tiếp tục đi vào bài thơ :

“Tôi gặp tôi của ngày xưa.

Con mương lem lấm vẫn lờ lững trôi.

Ấm mùa gặt tiếng cà lơi.

Náng chân trâu chú nhái ngồi gọi đêm.

Bước lần qua những rỉ hoen.

Xác mùa chinh chiến vẫn nghèn nghẹn đau.

Giàn tre xót lũ ong bầu.

Khoét vào lòng những hư hao tháng ngày”

Từ “bến xưa” của câu mở đầu nói trên, tác giả đứng đó để hồi tưởng, để ôn lại, để thổn thức với những ngày tháng cũ. “Tôi gặp tôi” - câu thơ chùng hẳn xuống như vào lời tâm sự. Như kiểu “cho tôi một vé về tuổi thơ”, tác giả giúp bạn đọc và nói đúng hơn là đồng hành cùng bạn đọc trở về lục tìm tuổi thơ trong ký ức sau bao năm dài bôn ba vì cuộc sống.

Tôi của ngày xưa ơi, chỉ cần thoáng nghĩ thôi là đã nghe lòng rưng rưng thương nhớ. Chỉ một đoạn thơ mà gợi lại quá nhiều kỷ niệm: con mương, mùa gặt, tiếng chim cà lơi (chiền chiện, sơn ca), náng chân trâu, chú nhái, giàn tre, lũ ong bầu, v.v … tính sơ sơ có đến 7 - 8 chi tiết hình ảnh trong một đoạn thơ ngắn. Điều đáng nói là nhiều chi tiết nhưng không lan man, dàn trải. Chỉ cảm thấy rất gần gũi và quen thuộc. Gần gũi đến độ thân thương, quen thuộc mà lại đến mức ngỡ ngàng.

Cái hay của đoạn thơ không chỉ đến từ những hình ảnh gợi cảm ấy, mà còn đến từ hồi ức khắc khoải của một thời chiến tranh, đã từng khắc ghi vào tuổi thơ tác giả: “Xác mùa chinh chiến vẫn nghèn nghẹn đau”“Khoét vào lòng những hư hao tháng ngày”. Để diễn tả nỗi buồn đau chiến tranh trên cố hương ngày ấy mà dùng 2 từ “nghèn nghẹn”“hư hao” thì có lẽ không còn từ nào hay hơn, xác đáng hơn.

Chỉ với đoạn đầu của “Ngày trở về”, tin rằng bất cứ ai lứa tuổi cùng tác giả cũng có thể bắt gặp bóng dáng mình trong đó. Người đọc dễ dàng đồng cảm bởi như tác giả đã nói hộ thay mình.

Thiết nghĩ cần dành đôi dòng để nói sơ qua về tác giả. Với anh em và bạn đọc không ai xa lạ Khê Giang là bút danh của bác sĩ Lê Văn Huấn. Quê anh làng Trường Sanh - xã Hải Trường cũ. Xong cấp 2 anh theo gia đình vào nam 45 năm nay, định cư tại Thị trấn Ngãi Giao - BRVT cũ.

Mặc dù công tác trong ngành Y tế, là bác sĩ, nhưng anh có năng khiếu và trình độ văn chương, làm thơ và viết văn đều hay. Là hội viên Hội văn học nghệ thuật BRVT.

Không những thế anh còn sáng tác nhạc. Những ca khúc của anh phần lớn cũng viết về đề tài quê hương và cũng đều hay, đều mượt mà và được thính giả mến mộ. Ví dụ các ca khúc: Trầm khúc sông, Khúc hát mùa đông, Quảng Trị tôi, Quảng Trị mình ơi, Dòng sông tuổi thơ, v.v …

Bên cạnh còn nhiều bản nhạc khác là thơ anh, được các nhạc sĩ khác phổ nhạc. Ví dụ các bài thơ: Sông khát, Niệm khúc một chiều thu, Miền ký ức, … được nhạc sĩ đồng hương Nguyễn Xuân Trường phổ nhạc, hoặc bài thơ Dòng sông mơ ước được nhạc sĩ Đỗ Thanh Khang phổ nhạc, v.v …

Điểm qua như thế để thấy anh là một người đa tài. Mình và nhà thơ Khê Giang ở quê là đồng hương Hải Lăng. Xã Hải Trường và Hải Hoà cũ cách nhau chừng 10 cây. Còn hiện ở BRVT, Ngãi Giao và Kim Long cũng chỉ cách nhau 5 - 7 cây. Vừa là bạn đồng nghiệp bác sĩ, vừa tri âm với sở thích văn chương và âm nhạc. Anh em tôn trọng nhau, quí mến nhau.

Trở lại bài thơ để tiếp tục lắng nghe những miên man nỗi niềm của Khê Giang “Ngày trở về”. Anh trải lòng :

“Tôi về bên ngọn khói cay.

Nắng xiên qua chái chiều lay lắt vàng.

Thời gian rớt xuống sẩy sàng.

Hạt loay hoay nhớ hạt chàng ràng quên.

Tôi về nghe tiếng đòn triêng.

Nghiến vào kẽo kẹt lên triền vai xưa.

Oằn lưng qua mỗi bến bờ.

Buồn đong bao gánh cho vừa phận chiêu”

Có cảm giác mấy chục năm xa quê, nhưng mỗi hình ảnh, mỗi kỷ niệm không hề phôi phai chút nào trong tâm thức tác giả. Bởi mọi thứ đều đã khắc sâu, in đậm. Tất cả đều rõ mồn một như vừa mới ngày hôm qua, hôm kia đây thôi. Cũng như đoạn thơ trên, tôi thật sự tâm đắc với lối diễn đạt rất nghệ thuật ở đoạn thơ này. Những sự đặc tả rất đặc sắc, vừa hiện thực vừa trừu tượng : ngọn khói chiều xiên qua chái bếp là một hình ảnh không lạ, nhưng được đi kèm bằng 3 thành tố nghệ thuật một lúc, làm nó trở nên không còn bình thường nữa, đó là: “ngọn khói cay”, “chiều lay lắt vàng”, “thời gian rớt xuống”, kèm thêm một tính từ tôi cho rằng rất đắt, đó là từ “sẩy sàng”, đã tôn đoạn thơ đặc sắc hẳn lên.

Một điểm đặc sắc khác là nhìn nắng chiều chiếu xiên qua chái bếp, làm tác giả liên tưởng như một chiếc sàng. Từng tia nắng là những hạt gạo lọt qua chiếc sàng chính là chiếc chái bếp và “mái tranh xiêu” (đoạn thơ dưới) để rồi hình tượng hoá, nâng lên một bậc khái quát trừu tượng, đó là thời gian. Xem thời gian là hạt đã là hay, nhưng “Thời gian rớt xuống sẩy sàng” thì quả là độc đáo hơn nhiều. Câu “Hạt loay hoay nhớ hạt chàng ràng quên” cũng rất hay và ý nhị, với từ “chàng ràng” rất lạ tai.

Cái “cay” của khứu giác, cái “kẽo kẹt” của thính giác, cái “nắng xiên qua chái”, “oằn lưng” của thị giác, và cả cái “lay lắt”, “buồn đong bao gánh” của cảm giác … mọi thứ trộn lẫn như thực như mộng. Tia nắng, hạt thời gian, hay hạt gạo rớt xiên qua sàng ? Có lẽ là tất cả!

Kế đó là chiếc “đòn triêng” (đòn gánh), một kỷ vật quê hương tiêu biểu không thể không nhắc tới. Là biểu trưng cho đức tính chịu thương chịu khó, một nắng hai sương của những người chân quê. Là chiếc đòn triêng oằn vai mẹ với gánh những thúng rau cải, hàng tạp hoá mỗi sớm mỗi chiều. Hay chiếc đòn triêng kĩu kịt của chị em gánh lúa về mùa gặt.

Cái hay ở chỗ tác giả như nghe được, cảm được cả tiếng chiếc đòn triêng nghiến vào vai, như nghiến vào mỗi phận đời lam lũ, cơ cực. Mỗi câu thơ vì thế mà như miên man, khắc khoải hơn rất nhiều :

“Tôi về dưới mái tranh xiêu.

Còn ai chằm lợp lòng chiều xác xơ.

Nhện giăng bồ hóng đợi chờ.

Kèo tre tiếng mọt nghiến phờ phạc đêm.

Có gì trong hạt nắng nghiêng.

Khi đàn chim mải miết tìm lối bay.

Có gì trong cọng heo may.

Nỗi se sắt nhớ những ngày xa xôi”

Càng về cuối, bài thơ càng se sắt, khắc khoải. Người đọc cảm nhận rất rõ cái miên man, đắm chìm trong suy tư, suy tưởng của tác giả. Càng đọc càng thương, càng xúc động. Thương quê hương, thương bà con và thương mình, thương tuổi thơ nghèo khó, túng thiếu mà chẳng thể nào quên.

Tôi rất ngạc nhiên bởi sự đủ đầy trong ký ức tác giả. Nhiều thứ nhưng không hề lan man. Trái lại đó là một xúc cảm liền mạch. Khi viết bài thơ “Ngày trở về” hẳn rằng tác giả không hề muốn giới hạn, gò bó số câu chữ, mà để mặc dòng suy tư trôi chảy.  Đúng thôi, ký ức và kỷ niệm, tuổi thơ và dĩ vãng thì biết mấy cho vừa !

Dù không muốn lan man nhưng miên man thì bắt buộc phải có. Cố hương “Ngày trở về” mà. Vì vậy đoạn thơ tiếp theo này không hề gây cảm giác “dài” cho người đọc, mà chỉ thêm bồi hồi rất lắng. “Mái tranh xiêu”, “nhện giăng bồ hóng”, “tiếng Mọt nghiến”, “hạt nắng nghiêng”, “cọng heo may”, v.v … có thể là nhiều nhưng đều rất chọn lọc. Kèm với đó là một loạt bút pháp nghệ thuật: “bồ hóng đợi chờ”, “mọt nghiến phờ phạc đêm”. Tôi đặc biệt thích thú và đánh giá cao câu: “Còn ai chằm lợp lòng chiều xác xơ”. Nó thoát khỏi cảnh diễn tả chị em ngồi chằm nón, mà còn là những gì sâu xa hơn, xót xa và mến thương hơn thế.

Nói cách khác, xen giữa các hình ảnh kỷ niệm theo nghĩa đen thực tế, là các ẩn dụ biểu trưng nâng cao, được tác giả lồng ghép rất khéo và dụng ý, tôn lên, làm trọng lượng hơn ý nghĩa khái quát của bài thơ. Qua đó khắc hoạ đậm nét hơn mọi thứ vào lòng người đọc. Đọc bài thơ có cảm giác “không thiếu thứ gì”, dồn dập, ngồn ngộn nhưng lại lắng sâu nhiều kỷ niệm.

Tôi đọc lại một lượt nữa từ đầu đến cuối bài thơ “Ngày trở về” và nhẩm thấy có hơn 20 hình ảnh kỷ niệm. Chính điều này làm bài thơ dài hơi và trọng lượng. Thường một bài thơ nói chung và một bài lục bát nói riêng, có khoảng 4 - 5 hoặc 6 khổ, tức khoảng từ 16 đến 24 câu. Bài “Ngày trở về” khá dài gồm 7 khổ = 28 câu. Cộng với 2 câu kết cuối bài là tròn 30 câu.

Dẫu biết rằng 30 câu thơ chưa thể nói hết được những gì 45 năm xa quê, nhưng với sự thể hiện qua bài thơ, người đọc cảm nhận được rất rõ tình cảm sâu sắc, tấm lòng và tài năng của tác giả, dành tặng cho quê hương Trường Sanh - Hải Trường yêu dấu.

“Có gì trong tiếng à ơi.

Mỗi khi lòng vịn tao nôi trở về”

Chân thành cảm ơn Khê Giang đã nói hộ một cách đầy xúc động. Tôi nghĩ thật khó có câu kết nào hay và trọn vẹn hơn câu kết này. Sau hơn 20 hình ảnh rất gợi cảm, gợi tình, gợi thương và gợi nhớ của bài thơ, để cuối cùng khép lại bằng chiếc tao nôi ngày thơ ấu - thấm đẫm cả tình cha nghĩa mẹ, tình chị ơi hời ru em ... Nơi từ đó ai trong mỗi chúng ta ra đi và đều luôn đau đáu, mong muốn được trở về …

(Kim Long,  BRVT - TP.HCM  6 -8 -2025)

Phạm Cảnh Thượng

No comments: