![]() |
| Nhà thơ Khê Giang |
Phân
tích bài thơ
“NGÀY TRỞ VỀ” của KHÊ GIANG
Phạm
Cảnh Thượng
Khi
xem thơ đọc thơ, thỉnh thoảng chúng ta bắt gặp những bài thơ không chỉ hay mà
còn có độ khái quát rất cao về một vấn đề, một đề tài nào đấy. Mình thường gọi
đó là những bài thơ vừa đẹp vừa tròn. Ví dụ để diễn tả, diễn đạt tình yêu tha
thiết, nỗi nhớ dạt dào của một người con xa xứ đối với quê hương, thì bài thơ
“Ngày trở về” của nhà thơ Khê Giang là một ví dụ tiêu biểu về điều vừa nói.
Có
lẽ rất nhiều người nghĩ rằng thơ lục bát là thể thơ “dễ làm” nhất. Chắc là
đúng. Nhưng để một bài lục bát đạt tầm cao, xứng đáng để gọi là “thơ” đúng
nghĩa, thì là chuyện hoàn toàn khác. Nghĩa là thơ lục bát dễ làm thật. Nhưng để
hay thì rất khó.
Có
những câu lục bát, bài lục bát kiểu bình dân. Trong khi lại có những áng thơ
lưu danh sử thi muôn đời, ví dụ Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du, cũng là
dưới dạng thể thơ lục bát.
Còn
bây giờ, mời bạn đọc thưởng thức và thử nhận xét, phân tích bài lục bát của Khê
Giang xem sao nhé :
“Tôi
về thăm lại bến xưa.
Lặng
nghe ký ức lụt bờ tháng năm.
Sông
quê vẫn tắm nắng vàng.
Con
đò vẫn chở ngày sang phía … chờ”
Chỉ
sau vỏn vẹn một câu vào đề thôi, rất rõ ràng và tự nhiên. Tự nhiên và dung dị
như một lời kể. Có lẽ cốt yếu kể cho chính mình nghe nhiều hơn là kể với mọi
người: “Tôi về thăm lại bến xưa”, qua câu thứ 2 trở đi là đã bộc lộ một loạt rất
nhiều cái hay của nghệ thuật thơ. Có lẽ bạn đọc nào cũng phải trầm trồ thích
thú với 4 chữ “lụt bờ tháng năm”.
Xem
thời gian là một dòng chảy, như dòng sông thì chắc không còn cách nào hay và
chính xác hơn được nữa. Dòng sông thì phải có bờ, bờ sông thì bình thường nhưng
“bờ tháng năm” thì độc đáo quá. Đúng không nào ?
Ngay
hình ảnh “bến xưa” trong câu đầu tiên thôi cũng đã rất gợi cảm và gợi mở nhiều
điều. Đó có thể là nghĩa đen bến sông xưa, cũng có thể nghĩa bóng là bến bờ của
ký ức, của kỷ niệm. 3 câu tiếp sau là một loạt hình ảnh mang tính đặc tả và biểu
tượng rất tiêu biểu : bến xưa - sông quê - nắng vàng - con đò. Được liên kết bằng
3 từ : lụt - tắm - chở.
Chính
3 từ rất đắt này là hồn cốt nghệ thuật. Đồng thời tạo nên sự gắn kết logic, rất
chặt và dính cho khổ thơ đầu tiên. Cộng thêm 2 chữ “phía … chờ” khá lạ tai, gợi
ra một “lối mở”, một cánh cổng mở không thể đẹp hơn, mời gọi hơn, để dẫn dắt
người đọc tiếp tục đi vào bài thơ :
“Tôi
gặp tôi của ngày xưa.
Con
mương lem lấm vẫn lờ lững trôi.
Ấm
mùa gặt tiếng cà lơi.
Náng
chân trâu chú nhái ngồi gọi đêm.
Bước
lần qua những rỉ hoen.
Xác
mùa chinh chiến vẫn nghèn nghẹn đau.
Giàn
tre xót lũ ong bầu.
Khoét
vào lòng những hư hao tháng ngày”
Từ
“bến xưa” của câu mở đầu nói trên, tác giả đứng đó để hồi tưởng, để ôn lại, để
thổn thức với những ngày tháng cũ. “Tôi gặp tôi” - câu thơ chùng hẳn xuống như
vào lời tâm sự. Như kiểu “cho tôi một vé về tuổi thơ”, tác giả giúp bạn đọc và
nói đúng hơn là đồng hành cùng bạn đọc trở về lục tìm tuổi thơ trong ký ức sau
bao năm dài bôn ba vì cuộc sống.
Tôi
của ngày xưa ơi, chỉ cần thoáng nghĩ thôi là đã nghe lòng rưng rưng thương nhớ.
Chỉ một đoạn thơ mà gợi lại quá nhiều kỷ niệm: con mương, mùa gặt, tiếng chim
cà lơi (chiền chiện, sơn ca), náng chân trâu, chú nhái, giàn tre, lũ ong bầu,
v.v … tính sơ sơ có đến 7 - 8 chi tiết hình ảnh trong một đoạn thơ ngắn. Điều
đáng nói là nhiều chi tiết nhưng không lan man, dàn trải. Chỉ cảm thấy rất gần
gũi và quen thuộc. Gần gũi đến độ thân thương, quen thuộc mà lại đến mức ngỡ
ngàng.
Cái
hay của đoạn thơ không chỉ đến từ những hình ảnh gợi cảm ấy, mà còn đến từ hồi ức
khắc khoải của một thời chiến tranh, đã từng khắc ghi vào tuổi thơ tác giả:
“Xác mùa chinh chiến vẫn nghèn nghẹn đau” và “Khoét vào lòng những hư hao tháng
ngày”. Để diễn tả nỗi buồn đau chiến tranh trên cố hương ngày ấy mà dùng 2 từ
“nghèn nghẹn” và “hư hao” thì có lẽ không còn từ nào hay hơn, xác đáng hơn.
Chỉ
với đoạn đầu của “Ngày trở về”, tin rằng bất cứ ai lứa tuổi cùng tác giả cũng
có thể bắt gặp bóng dáng mình trong đó. Người đọc dễ dàng đồng cảm bởi như tác
giả đã nói hộ thay mình.
Thiết
nghĩ cần dành đôi dòng để nói sơ qua về tác giả. Với anh em và bạn đọc không ai
xa lạ Khê Giang là bút danh của bác sĩ Lê Văn Huấn. Quê anh làng Trường Sanh -
xã Hải Trường cũ. Xong cấp 2 anh theo gia đình vào nam 45 năm nay, định cư tại
Thị trấn Ngãi Giao - BRVT cũ.
Mặc
dù công tác trong ngành Y tế, là bác sĩ, nhưng anh có năng khiếu và trình độ
văn chương, làm thơ và viết văn đều hay. Là hội viên Hội văn học nghệ thuật
BRVT.
Không
những thế anh còn sáng tác nhạc. Những ca khúc của anh phần lớn cũng viết về đề
tài quê hương và cũng đều hay, đều mượt mà và được thính giả mến mộ. Ví dụ các
ca khúc: Trầm khúc sông, Khúc hát mùa đông, Quảng Trị tôi, Quảng Trị mình ơi,
Dòng sông tuổi thơ, v.v …
Bên
cạnh còn nhiều bản nhạc khác là thơ anh, được các nhạc sĩ khác phổ nhạc. Ví dụ
các bài thơ: Sông khát, Niệm khúc một chiều thu, Miền ký ức, … được nhạc sĩ đồng
hương Nguyễn Xuân Trường phổ nhạc, hoặc bài thơ Dòng sông mơ ước được nhạc sĩ Đỗ
Thanh Khang phổ nhạc, v.v …
Điểm
qua như thế để thấy anh là một người đa tài. Mình và nhà thơ Khê Giang ở quê là
đồng hương Hải Lăng. Xã Hải Trường và Hải Hoà cũ cách nhau chừng 10 cây. Còn hiện
ở BRVT, Ngãi Giao và Kim Long cũng chỉ cách nhau 5 - 7 cây. Vừa là bạn đồng
nghiệp bác sĩ, vừa tri âm với sở thích văn chương và âm nhạc. Anh em tôn trọng
nhau, quí mến nhau.
Trở
lại bài thơ để tiếp tục lắng nghe những miên man nỗi niềm của Khê Giang “Ngày
trở về”. Anh trải lòng :
“Tôi
về bên ngọn khói cay.
Nắng
xiên qua chái chiều lay lắt vàng.
Thời
gian rớt xuống sẩy sàng.
Hạt
loay hoay nhớ hạt chàng ràng quên.
Tôi
về nghe tiếng đòn triêng.
Nghiến
vào kẽo kẹt lên triền vai xưa.
Oằn
lưng qua mỗi bến bờ.
Buồn
đong bao gánh cho vừa phận chiêu”
Có
cảm giác mấy chục năm xa quê, nhưng mỗi hình ảnh, mỗi kỷ niệm không hề phôi
phai chút nào trong tâm thức tác giả. Bởi mọi thứ đều đã khắc sâu, in đậm. Tất
cả đều rõ mồn một như vừa mới ngày hôm qua, hôm kia đây thôi. Cũng như đoạn thơ
trên, tôi thật sự tâm đắc với lối diễn đạt rất nghệ thuật ở đoạn thơ này. Những
sự đặc tả rất đặc sắc, vừa hiện thực vừa trừu tượng : ngọn khói chiều xiên qua
chái bếp là một hình ảnh không lạ, nhưng được đi kèm bằng 3 thành tố nghệ thuật
một lúc, làm nó trở nên không còn bình thường nữa, đó là: “ngọn khói cay”,
“chiều lay lắt vàng”, “thời gian rớt xuống”, kèm thêm một tính từ tôi cho rằng
rất đắt, đó là từ “sẩy sàng”, đã tôn đoạn thơ đặc sắc hẳn lên.
Một
điểm đặc sắc khác là nhìn nắng chiều chiếu xiên qua chái bếp, làm tác giả liên
tưởng như một chiếc sàng. Từng tia nắng là những hạt gạo lọt qua chiếc sàng
chính là chiếc chái bếp và “mái tranh xiêu” (đoạn thơ dưới) để rồi hình tượng
hoá, nâng lên một bậc khái quát trừu tượng, đó là thời gian. Xem thời gian là hạt
đã là hay, nhưng “Thời gian rớt xuống sẩy sàng” thì quả là độc đáo hơn nhiều.
Câu “Hạt loay hoay nhớ hạt chàng ràng quên” cũng rất hay và ý nhị, với từ
“chàng ràng” rất lạ tai.
Cái
“cay” của khứu giác, cái “kẽo kẹt” của thính giác, cái “nắng xiên qua chái”, “oằn
lưng” của thị giác, và cả cái “lay lắt”, “buồn đong bao gánh” của cảm giác … mọi
thứ trộn lẫn như thực như mộng. Tia nắng, hạt thời gian, hay hạt gạo rớt xiên
qua sàng ? Có lẽ là tất cả!
Kế
đó là chiếc “đòn triêng” (đòn gánh), một kỷ vật quê hương tiêu biểu không thể
không nhắc tới. Là biểu trưng cho đức tính chịu thương chịu khó, một nắng hai
sương của những người chân quê. Là chiếc đòn triêng oằn vai mẹ với gánh những
thúng rau cải, hàng tạp hoá mỗi sớm mỗi chiều. Hay chiếc đòn triêng kĩu kịt của
chị em gánh lúa về mùa gặt.
Cái
hay ở chỗ tác giả như nghe được, cảm được cả tiếng chiếc đòn triêng nghiến vào
vai, như nghiến vào mỗi phận đời lam lũ, cơ cực. Mỗi câu thơ vì thế mà như miên
man, khắc khoải hơn rất nhiều :
“Tôi
về dưới mái tranh xiêu.
Còn
ai chằm lợp lòng chiều xác xơ.
Nhện
giăng bồ hóng đợi chờ.
Kèo
tre tiếng mọt nghiến phờ phạc đêm.
Có
gì trong hạt nắng nghiêng.
Khi
đàn chim mải miết tìm lối bay.
Có
gì trong cọng heo may.
Nỗi
se sắt nhớ những ngày xa xôi”
Càng
về cuối, bài thơ càng se sắt, khắc khoải. Người đọc cảm nhận rất rõ cái miên
man, đắm chìm trong suy tư, suy tưởng của tác giả. Càng đọc càng thương, càng
xúc động. Thương quê hương, thương bà con và thương mình, thương tuổi thơ nghèo
khó, túng thiếu mà chẳng thể nào quên.
Tôi
rất ngạc nhiên bởi sự đủ đầy trong ký ức tác giả. Nhiều thứ nhưng không hề lan
man. Trái lại đó là một xúc cảm liền mạch. Khi viết bài thơ “Ngày trở về” hẳn rằng
tác giả không hề muốn giới hạn, gò bó số câu chữ, mà để mặc dòng suy tư trôi chảy. Đúng thôi, ký ức và kỷ niệm, tuổi thơ và dĩ
vãng thì biết mấy cho vừa !
Dù
không muốn lan man nhưng miên man thì bắt buộc phải có. Cố hương “Ngày trở về”
mà. Vì vậy đoạn thơ tiếp theo này không hề gây cảm giác “dài” cho người đọc, mà
chỉ thêm bồi hồi rất lắng. “Mái tranh xiêu”, “nhện giăng bồ hóng”, “tiếng Mọt
nghiến”, “hạt nắng nghiêng”, “cọng heo may”, v.v … có thể là nhiều nhưng đều rất
chọn lọc. Kèm với đó là một loạt bút pháp nghệ thuật: “bồ hóng đợi chờ”, “mọt
nghiến phờ phạc đêm”. Tôi đặc biệt thích thú và đánh giá cao câu: “Còn ai chằm
lợp lòng chiều xác xơ”. Nó thoát khỏi cảnh diễn tả chị em ngồi chằm nón, mà còn
là những gì sâu xa hơn, xót xa và mến thương hơn thế.
Nói
cách khác, xen giữa các hình ảnh kỷ niệm theo nghĩa đen thực tế, là các ẩn dụ
biểu trưng nâng cao, được tác giả lồng ghép rất khéo và dụng ý, tôn lên, làm trọng
lượng hơn ý nghĩa khái quát của bài thơ. Qua đó khắc hoạ đậm nét hơn mọi thứ
vào lòng người đọc. Đọc bài thơ có cảm giác “không thiếu thứ gì”, dồn dập, ngồn
ngộn nhưng lại lắng sâu nhiều kỷ niệm.
Tôi
đọc lại một lượt nữa từ đầu đến cuối bài thơ “Ngày trở về” và nhẩm thấy có hơn
20 hình ảnh kỷ niệm. Chính điều này làm bài thơ dài hơi và trọng lượng. Thường
một bài thơ nói chung và một bài lục bát nói riêng, có khoảng 4 - 5 hoặc 6 khổ,
tức khoảng từ 16 đến 24 câu. Bài “Ngày trở về” khá dài gồm 7 khổ = 28 câu. Cộng
với 2 câu kết cuối bài là tròn 30 câu.
Dẫu
biết rằng 30 câu thơ chưa thể nói hết được những gì 45 năm xa quê, nhưng với sự
thể hiện qua bài thơ, người đọc cảm nhận được rất rõ tình cảm sâu sắc, tấm lòng
và tài năng của tác giả, dành tặng cho quê hương Trường Sanh - Hải Trường yêu dấu.
“Có
gì trong tiếng à ơi.
Mỗi
khi lòng vịn tao nôi trở về”
Chân
thành cảm ơn Khê Giang đã nói hộ một cách đầy xúc động. Tôi nghĩ thật khó có
câu kết nào hay và trọn vẹn hơn câu kết này. Sau hơn 20 hình ảnh rất gợi cảm, gợi
tình, gợi thương và gợi nhớ của bài thơ, để cuối cùng khép lại bằng chiếc tao
nôi ngày thơ ấu - thấm đẫm cả tình cha nghĩa mẹ, tình chị ơi hời ru em ... Nơi
từ đó ai trong mỗi chúng ta ra đi và đều luôn đau đáu, mong muốn được trở về …
(Kim
Long, BRVT - TP.HCM 6 -8 -2025)
Phạm Cảnh Thượng

No comments:
Post a Comment