Phạm Xuân Dũng
Nằm dọc theo con đường thiên lý Bắc - Nam và cạnh các
con sông Ô Lâu, Vĩnh Định, mảnh đất Hải Lăng từ lâu
đã được biết đến là vùng quê địa linh nhân kiệt,
nơi sản sinh những danh sĩ, lương thần phò vua giúp nước,
những con người tài hoa, mẫn tiệp làm rạng rỡ quê
hương xứ sở. Tất cả luôn ẩn hiện trong trầm tích
lịch sử văn hóa sâu dày xứ Kẻ Diên.
Kẻ Diên tức Diên Sanh ngày xưa nay đã trao lại tên mình
cho thị trấn Diên Sanh, huyện lỵ huyện Hải Lăng ngày
nay vẫn được gọi tên là miền gió cát. Nhưng dù vậy,
đây là vùng quê với nhiều cảnh vật hữu tình và mến
khách đã từ lâu mời gọi bao người gần xa đến tiểu
trường sa Quảng Trị. Thị trấn xinh xắn này cùng với
các làng quê lân cận còn mang tên xứ Kẻ Diên, còn nhiều
dấu tích xưa kia chính là căn cước văn minh hay là những
vân tay văn hóa vùng miền.
Ở phía cực Nam tỉnh Quảng Trị, Diên Sanh hay nói rộng
hơn là vùng đất Kẻ Diên - Hải Lăng bây giờ có một
vị thế đặc biệt trong hành trình Nam tiến của cha ông.
Kẻ Diên tiếp giáp với xứ Thừa Thiên, nơi có kinh thành
Huế sau này, gắn liền với sự hình thành và phát triển
của chế độ phong kiến nhà Nguyễn từ khi chúa Tiên
Nguyễn Hoàng vào Quảng Trị trấn nhậm năm 1558. Đất
Diên Sanh, tên cũ gọi là Kẻ Diên kéo dài từ xã Hải
Thọ lên thị trấn Diên Sanh bây giờ cũng có vai trò hạt
nhân quan trọng trong việc tạo dựng nên gương mặt Hải
Lăng. Đình Diên Sanh, chợ cũ Diên Sanh là các công trình
văn hóa vật thể còn ghi lại dấu tích trên mảnh đất
được gọi là vùng lúa của Quảng Trị vốn là xứ
quanh năm lam lũ theo cái ăn cái mặc từ buổi đầu lập
nghiệp. Nhưng phải nói đặc sản văn hóa số một trong
văn học dân gian xứ này là bài ca con gà Kẻ Diên, một
tác phẩm văn chương truyền miệng có mặt trong nhiều
công trình danh giá của các nhà nghiên cứu. Bài ca cũng
nói về mùa xuân. Tháng giêng, tháng hai… vì quá khó khăn
phải đi vay mà mua con gà mái ở chợ Kẻ Diên để mong
sinh lợi. Nhưng rồi gặp vận hạn nên mất sạch đàn gà
con. Ấy thế nhưng bài ca kết thúc bằng hai câu bất hủ:
“Đừng than phận khó ai ơi/ Còn da lông mọc, còn chồi
nảy cây”. Nhà thơ lớn Chế Lan Viên khi sang châu Âu dự
hội thảo quốc tế các nhà văn trong những năm khói lửa
trước 1975 đã chiêu tuyết bài ca Kẻ Diên. Ông cho rằng
đó chính là phẩm giá tuyệt vời của Quảng Trị - Việt
Nam chứa đựng một tinh thần lạc quan ngay trong những
thử thách ngặt nghèo nhất. Ông còn ví con gà Kẻ Diên
như con phượng hoàng lửa phổ biến trong huyền thoại
của nhiều nước phương Tây, dù chết, dù bị thiêu trụi
vẫn tái sinh, phục sinh, vẫn bất diệt như niềm tin đất
Việt, vẫn đâm chồi nảy lộc, tạo dựng màu xanh và
mùa xuân từ chính tấm lòng mình, từ khát vọng nồng
cháy, từ niềm tin sắt đá về khả năng cải hóa cuộc
đời này.
Xứ Kẻ Diên còn được xem là vựa lúa Quảng Trị với
những cánh đồng phóng khoáng, với những sản vật nông
nghiệp quen thuộc của văn minh lúa nước. Đi trên vùng
quê Hải Lăng hôm nay bằng cách xuyên qua những cánh đồng
làng được mệnh danh là “Đồng Tháp Mười” Quảng
Trị nhất là vào mùa lũ sẽ thấy làng quê đẹp như một
bức tranh yên bình khi mùa xuân đang đến. Bốn bề xung
quanh là chân ruộng nối tiếp chân trời thoáng đạt,
những đàn vịt nhởn nhơ vô sự, ung dung bơi lội thỏa
thuê, bỏ qua những buộc ràng vướng víu bàn chân. Hình
như bên cạnh sự khắc nghiệt của gió cát thì vẫn nhận
được nhiều ân tứ của đất trời. Tạo hóa đã ban
tặng cho vùng đất này đủ núi, rừng, sông, biển và
những cánh đồng rộng lớn, trải dài theo cả bốn
hướng, xen lẫn với làng mạc quá đỗi nên thơ, gợi
nên nhiều cảm xúc. Đó không chỉ là cảm giác của
những người lần đầu trải nghiệm với vùng quê này
mà cả với những người gốc gác Hải Lăng. Tất cả
tạo nên một cảm hứng hân hoan khó tả đối với những
người làm phim và cả những nhân vật trải nghiệm quê
quán xứ Kẻ Diên. Cảnh vật nơi đây từ cây đa, đồng
ruộng, xóm làng cứ như thể đã trở thành những neo đậu
để hồn người có nơi nương tựa.
Nhưng Hải Lăng còn có sông Ô Lâu. Đây là con sông đắp
bồi phù sa cho những cánh đồng nuôi sống con người,
tạo lập nên những xóm làng thân thương như máu thịt
trong mỗi đời người. Đoạn sông này tên gọi Ô Giang,
một nhánh sông Ô Lâu đầy ắp huyền thoại nên có nhà
thơ gọi đó là dòng sông tình sử. Dòng sông này đã
chảy không biết qua bao nhiêu năm tháng, chứng kiến rất
nhiều cuộc đời chìm nổi và cả những mối tình đã
đi vào câu ca nổi tiếng gắn liền với cây đa, bến cũ
hay dân gian còn gọi là cây da, bến cộ. “Trăm năm dầu
lỗi hẹn hò/ Cây da bến cộ, còn đò khác đưa…” kể
lại chuyện tình của chàng nho sinh xứ Nghệ vào kinh ứng
thí, tình cờ gặp cô lái đò. Họ thương nhau, hò hẹn
rồi câu chuyện không thành để lại câu ca da diết, mênh
mang trên dòng sông tình sử. Chuyện cũ đã đi vào huyền
thoại, ca dao nhưng cảnh vật, tên đất, tên làng vẫn
còn như một minh chứng cho những tấm lòng sắt son thề
non hẹn biển. Địa danh cây da bên dòng Ô Lâu mãi là một
địa chỉ tình yêu ở xứ Kẻ Diên làm xao xuyến bao thế
hệ người Quảng Trị đã nặng lòng với quê hương bản
quán. Sông nước Ô Lâu không chỉ thuần túy là dòng chảy
tự nhiên ở phương diện địa lý mà còn là ngọn nguồn
văn hóa bồi đắp phù sa cho xứ sở Hải Lăng. Chỉ riêng
với văn nghệ truyền khẩu, mảnh đất này đã kết tinh
nên nhiều viên ngọc quý như chúng ta đã biết. Có thể
nói văn hóa dân gian Hải Lăng có một nội lực thâm hậu,
sâu dày và minh triết, chứa đựng nhiều điều mà đời
sau vẫn phải cần tìm tòi thấu đáo. Nhân chuyện này,
một người đồng hành là NGƯT, nhà thơ Võ Văn Hoa còn
muốn chiêu tuyết cho câu tục ngữ nói về “trai Cổ
Lũy, đĩ Trung Đơn”. Theo anh, cần phải hiểu chữ “đĩ”
là làm dáng, làm đẹp, nghĩa là một mỹ tục của làng
Trung Đơn chứ không phải là tệ nạn xã hội như có
người lầm tưởng. Càng thấy trong rất nhiều trường
hợp, hiểu cho đúng dân gian thật không hề đơn giản.
Ngay giữa trưa vào lúc chính ngọ khi mặt trời đứng
bóng, chúng tôi vẫn bắt gặp hình ảnh bà con nông dân
đang mải miết làm ruộng, chuẩn bị cho vụ mùa đông
xuân sắp tới. Họ chính là những chủ nhân bình dị từ
bao đời nay làm nên cốt cách văn vật Hải Lăng. Những
người dân đã vun đắp cho bức tranh quê, tạo nên dáng
vẻ và hồn vía đất đai sâu nặng mà chúng ta quen gọi
là bản sắc văn hóa vùng miền.
Rồi chúng tôi đến với Hội Kỳ, một làng cổ thuộc
xã Hải Chánh nằm cạnh con sông Ô Lâu huyền thoại.
Chúng tôi tình cờ bắt gặp hình ảnh cất rớ bên sông,
một công việc quen thuộc từ bao đời nay nhưng bây giờ
không phải dễ tìm. Đây cũng là một nét riêng ấn tượng
tạo thành một điểm nhấn thú vị của bức tranh làng
cổ Hội Kỳ. Đôi khi chúng ta tự hỏi, hồn vía quê nhà
nhiều khi đâu phải là điều gì cao xa, chỉ là hình ảnh
cất rớ ven sông mà cũng khiến lòng dạ nao nao.
Nếu bên kia sông Ô Lâu thuộc đất Thừa Thiên - Huế có
làng cổ Phước Tích nổi tiếng thì bên này sông thuộc
tỉnh Quảng Trị có làng Hội Kỳ cũng được nhiều
người biết đến, chủ yếu với kiến trúc nhà rường
độc đáo. Làng quê Hội Kỳ nên thơ với những ngôi nhà
mái thấp, với kiến trúc nhà gỗ lợp ngói được lưu
giữ từ đời này qua đời khác. Tham quan nhà cổ, ta sẽ
biết rõ hơn kiến trúc và nội thất của tổ ấm mà cha
ông đã nghiền ngẫm sáng tạo nên, hiểu thêm thế nào
là rường cột, kết cấu ràng buộc nhau trong một ngôi
nhà gỗ, cảm phục bàn tay tài hoa, khéo léo và cả tâm
hồn của người xưa gởi gắm vào kiến trúc của một
ngôi nhà. Những ngôi nhà cổ Hội Kỳ mang vẻ cổ kính,
gợi lên những giá trị vững bền được đắp bồi từ
quá khứ. Hiểu được tâm nguyện của cha ông, con cháu
đời sau đã giữ gìn, tu bổ những di sản kiến trúc quý
giá của tổ tiên, làm nên giá trị văn hóa vật thể
trong thời buổi bây giờ, một công việc đòi hỏi tâm
huyết, tiền bạc và công sức. Đặc biệt, những người
già vẫn cứ nặng lòng với những gì tiền nhân để
lại, cho dù hôm nay, cuộc sống văn minh đã có rất nhiều
thay đổi làm biến đổi nhiều khuôn mặt làng quê. Ông
Nguyễn Văn Mạnh một bậc cao niên làng Hội Kỳ thuộc
xã Hải Chánh dù tuổi đã gần đất xa trời vẫn cứ
thao thức với việc bảo tồn nhà cổ làng quê. Theo ông
đó chính là hồn vía của ngôi làng.
Nói đến văn vật Hải Lăng không thể không nhắc đến
hệ thống đình chùa miếu vũ ở đây. Các công trình này
vừa nhiều vừa tập trung với mật độ khá dày đặc ở
làng quê Hải Lăng. Có thể nhắc đến chùa Diên Thọ,
chùa Diên Bình, chùa Diên Phước ở xã Hải Thọ như một
dẫn chứng. Chùa Diên Thọ có một lịch sử hàng mấy
trăm năm, là một trong những di tích tiêu biểu cho tín
ngưỡng Phật giáo ở vùng đất Kẻ Diên. Chùa được
xây dựng trên một ngọn đồi khi ngày trước ở đây
cây cối um tùm, đường sá khó đi. Qua bao phen chiến
tranh ly tán, chùa Diên Thọ đã được xây dựng lại và
có được diện mạo như hôm nay. Chùa Diên Thọ được
xếp hạng di tích lịch sử văn hóa. Theo giới chuyên môn
thì chùa được xây dựng trên một đồi cát, với trước
là trằm nước nổi nối với Bàu Chùa làng Câu Hoan. Chùa
được xây dựng vào thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1739 -
1765) và được hoàn thành vào năm 1759. Chùa được tu bổ
nhiều lần nhưng cơ bản vẫn giữ được kiến trúc
nguyên bản xưa kia. Chính điện là một ngôi nhà ba gian
hai chái nhưng nhờ nghệ thuật sử dụng chái kép nên
không gian mặt bằng được nâng lên theo chiều dọc. Kết
cấu theo kiểu cột chống, cột mốc. Chính điện thờ bộ
tượng tam thế, kế tiếp là tượng Thích Ca tọa thiền,
thấp hơn nữa là tượng Thích Ca sơ sinh. Gian bên tả thờ
tượng Quan Thế Âm, phía sau thờ vọng thủy tổ 12 dòng
họ vô tự. Hai bên tả hữu cạnh khảm thờ các vị thủy
tổ còn có bàn thờ thờ chư vị phật tử ký tự. Hậu
liêu thờ Bồ Đề Đạt Ma.
Cách đó một đoạn đường ngắn là chùa Diên Bình, một
ngôi chùa được ra đời sau này do nhu cầu tâm linh, tín
ngưỡng của bà con nơi đây. Chùa tọa lạc bên cạnh con
đường lớn, thuận tiện cho bà con Phật tử đi lễ hoặc
vãn cảnh chùa. Người dân đến với chùa như đến ngôi
nhà tinh thần thứ hai của mình, đặng tu tâm dưỡng
tính, hướng thiện và hướng thượng. Sinh hoạt Phật
giáo đã trở nên một nét riêng biệt, an hòa trong đời
sống của người dân quê sau những lo toan trong cuộc sống
hàng ngày.
Miệt này có chùa Diên Phước hay còn có tên gọi là chùa
Chính Phước. Đây cũng là một ngôi chùa cổ có tuổi
đời hàng thế kỷ, xuất xứ từ một niệm phật đường
xưa kia. Vị trí này vốn dĩ là vùng đất trũng nằm giữa
vùng ruộng nước, sau được đắp bồi dần, được xây
cất và tu bổ ngày càng tử tế và thành hình như hôm
nay. Ngôi chùa sau rất nhiều biến động thế sự vẫn
bằng an, thanh tịnh trong đời sống tâm linh, trong câu
chuyện của những người quan tâm đến đời sống tín
ngưỡng của bà con ở xứ Kẻ Diên. Thượng tọa Thích
Tín Thuận, Trưởng ban nghi lễ Giáo hội Phật giáo Việt
Nam tỉnh Quảng Trị trò chuyện với chúng tôi cũng cho
biết nhiều chi tiết thú vị. Ngay trước sân chùa là một
cái giếng cổ còn lại, xưa là giếng làng. Nhìn xuống
còn thấy thành giếng bằng gỗ lim hàng mấy trăm năm trơ
gan cùng tuế nguyệt. Cách đó mấy bước chân là miếu
thờ một vị tướng có công đánh giặc ngoại xâm, sau
thác đi được dân làng thờ phụng. Tên tuổi của ngài
phủ một làn khói sương huyền thoại, duy lòng thành của
người dân với bậc có công thì vẫn còn mãi, lưu truyền
với thời gian của một vùng quê phía Nam Quảng Trị.
Ngôi chùa này cũng như bao ngôi chùa khác, gần gũi với
chúng sinh, tạo một mối giao hòa giữa đời và đạo,
được nhiều người tìm đến để chia sẻ tâm tình.
Người ta đến với nhau bằng tình người, bằng những
sẻ chia chuyện đời, chuyện đạo để làm cho cuộc sống
thêm tươi vui, thái hòa, xua đi những bận bịu đời
thường. Âu đó cũng là nét đẹp cần được duy trì
trong sinh hoạt Phật giáo hiện nay. Cũng như mỗi khi nghe
tiếng chuông chùa, kinh kệ thì tâm hồn lắng lại, để
cảm nhận sâu hơn cuộc sống con người, để có thể
bình tâm tránh những cám dỗ tham, sân, si - những tinh hoa
của tinh thần Phật giáo cho lòng thêm được đôi phần
nhân ái, từ tâm.
Lại về với Câu Nhi kẻ sĩ, một ngôi làng nổi danh của
đất học Hải Lăng, nơi chôn nhau cắt rốn, sinh thành và
đào luyện nhiều nhân tài đất Việt. Làng Câu Nhi thuộc
xã Hải Tân cũng nằm cạnh con sông Ô Lâu tình tứ. Trải
bao vật đổi sao dời mà vẫn còn đây một doi đất
duyên dáng được nhiều người mượn theo phong thủy ví
như mũi bút chấm mực vào dòng Ô Lâu mà hun đúc nên khí
chất đất này, sinh ra nhiều người con học hành thành
đạt, có nghĩa với làng, có công với nước. Những hình
ảnh làng quê an bình quen thuộc bên cạnh bến sông khiến
ai đó dẫu chỉ một lần đến đây cũng không khỏi bâng
khuâng, xao xuyến. Rồi cho đến lúc chia tay lòng vẫn cứ
dùng dằng, xao xuyến.
Thùng thình như đình Câu Nhi, câu thành ngữ đã quen thuộc
trong lời ăn tiếng nói dân gian, diễn tả sự bề thế
và vai vế của đình làng này từ ngàn xưa truyền lại.
Làng Câu Nhi thuộc xã Hải Tân chính là tâm điểm xứ Kẻ
Diên địa linh nhân kiệt, nơi sinh hạ nên những bậc
danh sĩ nổi tiếng cả nước như tiến sĩ khai khoa Xứ
Đàng Trong Bùi Dục Tài ngày xưa hay nghệ sĩ tên tuổi
như nhạc sĩ Trần Hoàn ngày nay. Năm 1502, cách đây hơn
năm trăm năm, làng quê này đã đóng một mốc son chói
lọi trên con đường học vấn nửa nước phía Nam từ
Quảng Trị trở vào với sự kiện chấn động giới quan
lại, nho sĩ: ông Bùi Dục Tài đã đỗ Tiến sĩ đầu
tiên Xứ Đàng Trong. Tên tuổi của ông đã được khắc
vào bảng vàng bia đá ở kinh thành Thăng Long, được
người sau noi gương, được hậu thế lưu truyền. Ông
Bùi Văn Nhị, trưởng họ Bùi làng Câu Nhi tuổi ngoại
bát tuần vẫn minh mẫn nhắc lại truyền thống học
hành, khoa cử của tổ tiên. Tâm nguyện của cháu con vẫn
tha thiết nối nghiệp cha ông làm vẻ vang họ tộc, xóm
làng.
Làng quê Câu Nhi đã nổi tiếng với nhiều danh sĩ, với
nhiều quan đại thần đầu triều xưa kia cũng như nhiều
nhà khoa học, nhiều giáo sư tiến sĩ thực tài ngày nay.
Đây là nguyên khí, là vốn quý của văn vật đất này
có mạch nguồn từ ngày xưa chảy vào hiện tại. Cho đến
hôm nay, trong một ngày mùa xuân đến sớm, hậu thế Câu
Nhi vẫn cung kính tri ân tiền nhân. Những trí thức thời
nay, dẫu bận bịu nhiều việc riêng, chung khi có dịp vẫn
hướng về cội nguồn nghiên bút để biết ơn những
người khai sáng. Đi cùng với chúng tôi, nhà thư pháp
Hoàng Tấn Trung cảm khái nói rằng đất Câu Nhi từ xưa
đã vang danh trong sử sách, bao trung thần, lương tướng
từ chốn này mà ra, đóng góp nhân tài vật lực cho quê
hương đất nước.
Mùa xuân lại về với xứ Kẻ Diên theo quy luật vĩnh
hằng của tạo hóa. Vẫn đất ấy, người ấy, có điều
gì khác xưa khi cuộc sống không ngừng biến chuyển. Quả
thật có rất nhiều điều đã khác xưa. Nhưng có những
điều dường như không hề thay đổi. Những cánh cò phân
vân trên đồng ruộng chiều tà mà dấu chân lấm bùn đã
đi vào ca dao của những người nhà nông một nắng hai
sương; những chân ruộng tưởng như thảnh thơi kỳ thực
đang nóng lòng, hối hả đợi vụ mùa sắp tới; những
làng quê với bến nước sân đình đang ẩn chứa thẳm
sâu những gì tinh túy nhất của đất trời và con người
từ bao đời nay vẫn thế. Bình lặng và hiền hòa nhưng
mảnh đất này đã kết tinh nên nhiều giá trị văn hóa
có ý nghĩa quan trọng, nuôi dưỡng nhiều con người đã
trở thành nhân vật lịch sử văn hóa của quê hương đất
nước. Cứ thế, vùng quê văn vật hiền hòa này vẫn cứ
lắng sâu thi vị rút ruột mình mà dâng hiến cho đời,
để tạo thành gương mặt mùa xuân.
P.X.D
No comments:
Post a Comment