Nguyễn Ngọc Kiên và Lê Mai (từ trái sang)
QUYỀN ĐƯỢC RÊN – MỘT KIỆT TÁC CỦA NHÀ VĂN LÊ MAI
TS. Nguyễn Ngọc Kiên
Cầm truyện ngắn “Quyền được rên” trên tay, ngườì đọc nghĩ ngay đến Hà
Nội những năm tám mươi của thế kỷ trước. Nhà chật chừng hai mươi mét vuông mà
chứa đến ba cặp vợ chồng. Mọi sinh hoạt thật bất tiện! Ngay cả rên khi quan hệ
tình dục cũng phải ý tứ nhìn trước ngó sau! Nhưng “Quyền được rên” không phải
truyện viết về tình dục hay sinh hoạt vợ chồng. Truyện viết về cuộc đời thực
của nhà văn Hoàng Công Khanh, người đã được nhà nước đặt tên đường ở Kiến An
Hải Phòng.
Trong công ước LHQ về quyền con người có nói, mọi người đều có quyền được lao động học tập và nghỉ ngơi (Each person has
the right to work, to rest and to housing). Rồi quyền hội họp, quyền biểu
tình…, nhưng không thấy nói đến quyền được rên.
Có thể nói mà không sợ ngoa ngôn rằng “Quyền được rên” của nhà văn Lê
mai có thể xếp trên “Sống mòn” của Nam Cao; vì “Sống mòn” viết về cuộc đời của ông giáo Thứ rất khổ cực trước cách
mạng tháng Tám. Ở đây nhân vật chính là Hoàng không những vô cùng cực khổ mà
còn phải chịu trăm đắng ngàn cay! “Quyền được rên” còn xếp trên “Chuyện kể năm
2000” của Bùi Ngọc Tấn, có dung lượng mấy trăm trang, cuối cùng chỉ đi tìm câu
trả lời vì sao mình bị tù. “Quyền được rên” là truyện ngắn nén rất chặt trong
mấy chục trang, nhưng nó có tầm tư tưởng rất lớn của một tiểu thuyết. Nó được
viết ra không phải để gây thù chuốc oán hoặc khắc sâu thêm mối hận thù. Mà nó
rất bao dung để nhớ lại một thời ấu trĩ! Đúng như có lần nhân vật chính đã “thủ thỉ nói với con và cũng như nói với lòng mình:
Ông - Con ơi! Oán hờn mà trả bằng oán hờn thì oán hờn ngày càng chồng
chất. Con người hơn con vật ở chỗ đối xử với nhau có nghĩa có nhân. Lớn lên rồi
con sẽ hiểu, không phải ngẫu nhiên mà Thánh Găng Đi nói: “Tôi không bao giờ tự
hạ thấp mình ngang tầm của bạo lực.” Cái gì đã qua bố con mình cùng cho qua con
nhé! Chớ để bụng, đừng thù oán ai cả… Càng đớn đau mình phải sống càng nhân
hậu, con có hiểu không?”
Đó cũng chính là tư tưởng nhân văn xuyên suốt của mạch truyện.
Cách hành văn có những đoạn đảo ngữ, nói lên được cái phi lý không thể
giải thích được. Nó hệt như các truyện của Kafka, phi lý nhưng rất đúng “quy
trình” ở xã hội Việt nam hôm nay!
“Quyền được rên” giống như câu thành ngữ của người Anh: “thanh gươm
Damocles (the sword of Damocles) treo lơ lửng trên đầu” nhà văn. Viết văn là
nghề hết sức nguy hiểm. Nhà văn lúc nào cũng nơm nớp lo sợ. Nguyên nhân chính
là người ta nghi ông có dính dáng đến “Nhân văn giai phẩm” và bắt ông vào tù.
Nhân vật Hoàng, tức Hoàng Công Khanh bắt đầu được biết đến qua vở kịch
thơ Về Hồ được diễn ở Hà Nội chào mừng quốc hội khóa một nước Việt Nam dân chủ
cộng hòavà sau đó được công diễn trên nhiều vùng kháng chiến khắp cả
nước. Thời gian đầu kháng chiến chống Pháp ở Liên khu 3, ông giữ nhiều chức vụ
quản lý trong ngành văn hóa và vẫn viết đều tay. Giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám đến 1950, ông xuất bản hai tập truyện ngắn Trên bến Búng (1947) và Chuyện người tù binh Algérie (1948), hai vở kịch nói Màn cửa vàng (1950) và Nhập ngũ (1950) cùng tập thơ Hà Nội không ngủ (1950). Các sáng tác của Hoàng Công Khanh thời kỳ này chủ yếu có mục
đích phục vụ cuộc kháng chiến chống Pháp.Từ giữa năm 1950 đến 1954, ông về Hà
Nội viết văn, viết báo, làm tổng biên tập tạp chí Dân ý, một tạp chí có sự
lãnh đạo của thành ủy Hà Nội. Những tác phẩm được nhắc tới nhiều nhất của Hoàng
Công Khanh được viết trong thời gian này. Ông đã cho xuất bản các tác phẩm Mối tình đầu (tiểu thuyết, 1951), Mẹ tôi sớm biệt một chiều thu (tiểu thuyết, 1953, tái bản 1991), Yêu chỉ một lần (tiểu thuyết, 1954), Trại Tân Bồi (tiểu thuyết, 1953), Bạn đường (tiểu thuyết, 1953), Éo le (tiểu thuyết, 1954), Bến nước Ngũ Bồ và Cung phi Điểm Bích (kịch thơ, xuất bản 1953, tái bản
1991). Các vở kịch thơ Bến nước Ngũ Bồ, Cung phi Điểm Bích được dựng lại trên sân khấu vào các năm 2007, 2008 và đều được đánh giá
rất cao. Riêng Cung phi Điểm Bích còn được Giải A giải thưởng sân khấu 2007 của Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. Cuộc đời của nhân vật Hoàng (Hoàng Công Khanh) đầy tài năng và lừng
lẫy như vậy nhưng đầy những nghịch lý:
- Nghịch lý thứ nhất, ông làm nhà văn, và viết văn khi chẳng biết làm nghề gì khác. Với một
nhà văn lừng lẫy như thế, khi ra tù nhớ nghề lúc rảnh, ông lại viết. Ông biết “ Văn chương là thứ cực kỳ nguy hiểm. Vinh quang chẳng đáng là bao mà
nhục nhã ê chề thì vô tận. Ngày ra tù ông đã ngầm tự hứa sẽ cai nó, sẽ cạch nó
đến già. Nhưng gió, nhưng nắng, nhưng hương đồng gió nội, nhưng những thôn nữ
dịu dàng, e ấp như lúa, như ngô… khiến thi hứng giờ đây cuồn cuộn trào dâng.
Ông chặc lưỡi . Sao mình lại không viết?”
Thấy ông ngồi viết, đứa con gái ông sợ hãi – một nỗi sợ mơ hồ, đã
phải kêu lên:
“Bố ơi! Bố đừng viết nữa con sợ lắm. Thảo nào thi sĩ Phúc, văn sĩ Lam cứ
phải viết chui, viết lủi. Mỗi lần viết cứ phải lén lút như tội phạm. Những câu
thơ hay, những áng văn hay thẫm đẫm tình người – tình vật phải chịu chung số
phận đớn đau nơi gầm giường, nóc bếp, đống rơm, chuồng lợn…
Có lần, ông nghiêm túc nói với con:
“- Bác Trần vừa tề gia nội trợ - nữ công gia chánh để bác gái bán hàng
vừa viết truyện. Ông Trương vừa bới rác nhặt rau nuôi lợn vừa viết kịch. Bác
Phùng vừa cắt tóc vừa làm thơ. Bác Loan vừa câu cá vừa vẽ… Chẳng lẽ bố lại
không vừa làm lái chó vừa viết văn được sao? Không đọc không viết bố thấy tiếc
thời gian lắm, tủi mình và chưa xứng với mẹ, với các con. Vả lại, không viết nữa
tức là bố công nhận mình sai, phải đi tù là đúng”
- Nghịch lý thứ hai, một ngày ở ngoài nghìn thu ở tù. Bạn bè phải thốt lên, khi ông được vào
tù - cái chi tiết thật đắt và cũng hài hước, chỉ có
ở Việt Nam:
“- Học tập xong rồi hả? Giác ngộ rồi, đến giáo huấn ta đấy phỏng?...
Ngẫm kỹ thấy anh cũng giỏi. Giỏi lắm! Người đời phải gây tội mới được tù. Còn
anh, chẳng phải nhọc xác gây gì cũng được tù. Thời Pháp đi tù thời Pháp. Thời
ta đi tù thời ta. Thời nào cũng được tù. Dễ thường nghề tù cũng đến kịch bậc
rồi chứ kém cỏi gì!”
Cuộc đời ông này ở tù đâm ra lại còn sướng hơn ở ngoài. Ở tù ông có cơm
ăn, áo mặc và có công ăn việc làm. Ra tù thì chẳng có việc gì để làm. Để kiếm
kế sinh nhai ông đã từng làm kéo xe, rồi làm người buôn chó, rồi dùng sức “chân
cò tay vượn” của mình để đi đào hầm thuê.
Ra tù, có lúc không việc làm, những bạn bè, “đồng chí” một thời cũng xa
lánh ông như xa lánh hủi:
“Ngày ra tù, về nhà con thấy đấy. Nhà mình vẫn hoang lạnh như nấm mồ
hoang. Bạn bè thân thiết, hàng xóm láng giềng có ma nào đến sẻ chia với mình
đâu. Thậm chí ra ngoài đường có người chẳng may gặp bố, họ còn kéo mũ che mặt
lảng đi.”
- Nghịch lý thứ ba, nỗi buồn khi hết chiến tranh. Người ta thì vui mừng khi nghe tin chấm
dứt chiến tranh. Đối với ông, hết chiến tranh đồng nghĩa với việc ông bị thất
nghiệp. Hết chiến tranh thì ai còn thuê ông đào hầm nữa! Cuộc đời đầy chua
chát!
“Sư cha cái anh Giôn Xơn, nó lại tuyên bố: Ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20
trở ra. Nghĩa là, nó ngừng ném bom ở khoảng không gian mà ông sống và đào hầm
để kiếm sống. Thế là… ông lại thất nghiệp.”
Nghịch lý thứ tư, ông đi tù mà không biết mình phạm tội gì. Ở trong tù, ông hỏi quản giáo:
“Thưa cán bộ, trường hợp tôi bao giờ thì được ra toà?” Ra tòa!
Phải! Ra tòa! Các phạm kinh tế hay hình sự ở lán ông ai cũng đã được ra tòa. Họ
có án đàng hoàng. Họ biết rõ ngày đi – cũng biết rõ ngày về. Còn ông… Ông mong
ước được ra tòa. Ra tòa – ông nghĩ: Mọi việc sẽ được phân định rõ ràng. Trắng
ra Trắng. Đen ra Đen. Lúc ấy, dẫu có phải đi tù ông cũng không oan ức. Người
quản giáo nhìn ông. Nhìn từ đầu xuống chân rồi khinh khỉnh nói:
- Ông là nhà văn có tiếng mà còn dốt thế! Tù rồi còn đòi ra tòa làm gì?
Những câu trả lời ngô nghê của người quản giáo là minh chứng hùng hồn
cho một thời quá ư là ấu trĩ:
Ông lạnh người nhận ra cái tuyệt đúng, tuyệt gọn, tuyệt dễ hiểu của lời
lẽ anh quản giáo, nhưng như thế thì mông lung quá, mịt mờ quá… Ông rụt rè thưa
tiếp:
- Nếu không ra tòa, không có án tôi biết sao được tội gì? Hình phạt là
bao nhiêu năm?
Và đây nữa, lời anh quản giáo mới thật hài hước như lời một diễn hài:
“Nhìn ông, anh quản giáo cười hiền, tỏ ý thông cảm:
- Dốt thế, ở tù cũng đáng... Ông là đi học tập, đi cải tạo chứ có phải
tù đâu mà hỏi án bao nhiêu năm. Đi học tập, đi cải tạo thì bao giờ học tập tốt,
cải tạo tốt thì… ra trường. Tốt nghiệp ý mà! Muốn biết bao nhiêu năm thì phải
tự hỏi mình chứ hỏi gì tôi. Thôi, hồ hởi, phấn khởi nhé!.
Cái tư tưởng nhân văn của tác phẩm được gói lại ở đoạn đối thoại với vợ
ông, khi ông bộc bạch – đây là cái đoạn cũng rất con người:
“Vợ con khóc tu tu: Tiếng Tây tiếng Tàu đầy người…Tù thì còn hiểu được
chứ. Đẩy xe bò thì không thể nào hiểu nổi”.
Và cuối cùng Hoàng đã trả lời vợ:
“Mà bà còn lạ gì tôi, nào có biết hận thù, căm uất ai đâu mà bà phải lo,
phải sợ. Họ đánh mình đau quá thì mình rên. Rên cho nó đỡ đau, bà ạ! Con người
ai chẳng có quyền được Rên.
Nhưng thật hài hước khi mà ở một xã hội đến rên cũng không thể được, thì
không thể nói quyền làm gì khác của con người. Vợ ông nói:
- Sắp xuống lỗ rồi mà ông còn thơ ngây thế? Ông tưởng Rên là tội nhẹ lắm
ư? Các ông ngày xưa ngợi ca – hát ông ổng còn bị kẻ độc miệng cho mang
vạ. Giờ lại đòi Rên. Quyền được Rên! Ơ hơ…quyền được Rên! Ngớ ngẩn, ngớ ngẩn
hết chỗ nói…”
Vĩ thanh
Tóm lại “Quyền được rên” là một kiệt tác của Lê Mai. Cách hành văn trong
sáng, ngắn gọn, khúc triết, dung lượng của truyện được nén rất chặt. Nội dung
tư tưởng và tính nhân văn rất rõ được thể hiện qua từng nhân vật. Mặc dù trải qua những ngày tháng tù đày phải chịu “trăm đắng ngàn cay”
nhưng cuối cùng ông đã được minh oan. Tên Hoàng Công Khanh đã được đặt tên đường. Tác phẩm của ông đồ sộ và có
giá trị ghi dấu ấn một thời như vậy, nhưng nhà văn chưa một lần được giải
thưởng (phải chăng đây lại là một nghịch lý). Nhà văn Hoàng Công Khanh giờ đây
hẳn cũng ngậm cười nơi chín suối. Mỗi tác phẩm đều có số phận riêng của nó. Nhưng người viết tin
rằng “Quyền được rên” sẽ sống mãi cùng hậu thế, bất chấp thời gian.
TS. Nguyễn Ngọc Kiên
No comments:
Post a Comment