Đọc thơ Phạm
Ngọc Thái, ta nhận thấy ở
anh một tâm hồn tha thiết yêu thương và thường hồi ức
về những kỷ niệm
đã xa xưa:
Hãy níu lại dùm
ta! Một thời dĩ vãng…
Gió vẫn trôi, lá vẫn bay vèo
Nhưng vẫn đó: em, anh - cuộc sống
Và một mối tình ta đã tặng cho hết thảy trăng sao.
(Khoảng trôi trong
lá)
Hay bài Anh Vẫn Ở Bên Hò Tây:
Tình để lại vết thương
không lành được
Soi mặt hồ in mãi bóng thời gian
Em hiền dịu trái tim từng tha thiết
Người con gái anh
yêu
nay
hóa khói sương tan.
Một số bài thơ
ta lại thấy hiện lên một
cái bóng bảng lảng cõi thiền, quanh quất chốn phật
đài của cái buổi hoàng hôn trong cuộc đời:
Chiều lễnh
loãng bóng đa gù bên phố
Mõ chùa buông thay tiếng
nói của tình yêu!
Trong sân gạch sư già quét lá
Bước người đi thầm lặng cõi hư
hao...
(Một góc hồ Tây)
« Mưa bay trong tiếng chuông »:
Chuông chùa thỉnh
lên lời cầu nguyện
Nam-mô-a-di-đà!
Trong khúc mưa bay
âm vang trời đất
Nửa tỉnh, nửa mê cũng thể
như là…
Thơ Phạm Ngọc
Thái giầu triết lý. Đặc điểm
của tính triết lý ấy là được
vận từ đời sống
vào thơ, chắt ra từ tim óc nên cảm
xúc mạnh mà không bị gò ép. Thí dụ:
Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
Anh cũng không làm chàng Trương
Chi
suốt đời chèo sông vắng
Ta không đi theo con-đường-lông-ngỗng-trắng
Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau!
(Người đàn bà trắng)
Cái đời thường được
khái quát bằng một sự trải
nghiệm sâu sắc: con người với xã hội,
cá nhân và thế giới. Nó mang tính đời sống triết
học, tính vũ trụ… tồn tại
và cát bụi. Tùy theo cảnh
tình nhào luyện thành vóc
thơ ca.
A. ÍT NÉT VỀ
SỰ KHÚC TRIẾT TRONG THƠ ĐỜI CỦA
ANH
Thơ đời Phạm
Ngọc Thái đẫm tính hiện thực, xã hội
và thời đại. Nó rất cô đúc. Để
nói về sự vất vả,
lam lũ kiếm miếng cơm manh áo của
người lao động, anh ví cuộc đời của
họ giống như những
chiếc chổi tre kéo lê trên đường, năm tháng bị mòn vẹt dần
đi:
Em quét lá lẫn đời lẫn kiếp
Tiếng chổi mòn kêu xiết vào tim
(Cô quét lá đêm hồ)
Tác giả đã gắn nỗi
lòng mình trước những sự mất
mát của những con người bần hàn ấy,
theo nghĩa ẩn dụ sâu sắc:
Trăng như đứa không nhà trôi lạc
lõng
Con nai vàng chết bóng thu xưa...
Hình ảnh sinh động mà đa nghĩa. Tả về cô quét lá đêm mà thơ như
một khúc hát du dương, cứ thánh thót gieo thấm
vào lòng ta:
Liễu ru nhè nhẹ quanh bờ vắng
Em thầm thì quét lá bên tôi!
Trong bài thơ "Em bán xoài", tại một khung cảnh
bên bờ biển thành phố Nha Trang. Dưới
những bóng dừa xứ sở
là những thân phận đang sống nổi trôi, vất
vưởng chốn nhân quần. Chủ nghĩa nhân đạo
của bài thơ chính là lòng thương người và nỗi
đau đời:
Thế giới em đi "vòng thiên la địa võng"
Tóc còn xanh em bán kiếp
đời trôi
Xoài em thơm hương toả mát thân người
Ai mua xoài?
Còn ai có mua em?
Để phản ảnh
thân phận những lớp người
xuất khẩu lao động ở
nước ngoài, chẳng khác gì là đoàn quân ô hợp, bèo dạt mây trôi. Nhiều nơi nhiều
chỗ tranh giành, xô xéo,
dối lừa nhau làm ăn không kém gì cảnh chợ giời.
Đạo đức bị tha hoá:
Kẻ tìm vàng - Người vì cảnh nghèo đi
Đạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ
Đứa mách qué lại vân vi dễ sống...
Hạt muối xót tháng năm và lòng ai đắng?
Tôi nhận chìm tôi
vào những lãng quên.
(Nỗi trăn trở người đi tìm vàng).
Còn ở bài « Làm ma em vợ », ta lại thấy thi phẩm
nhuốm đầm nỗi kiếp
đoạn trường ở trong kinh Phật:
Em ơi: chữ “kiếp” trước
chữ “người”!
Sống cần cố gắng,
chết rồi thôi.
Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ...
Anh ở vì chưng trả nợ
đời.
Nhà văn Đào Viết Minh khi bình bài thơ này đã có nhận xét:
"Làm ma em vợ" là một bài thơ khóc. Đứng trước bao cảnh
đời khốn khổ trên bờ
bến nhân gian, với tâm khảm xót xa một người em vợ,
nhà thơ đã viết ra bài khóc tang này... Bài
thơ tuy cũng dựa trên một nỗi đời
cụ thể, nhưng nó có cấu
trúc của một bài thơ tượng trưng
nói về nơi bể khổ
dân tình - Câu thứ ba của đoạn thơ
này:
Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ...
Cái nạn kiếp người
nơi hạ tầng của
chúng sinh thời nào mà chẳng khổ? Trải
qua những thăng trầm trong nhân tình thế sự, chiêm nghiệm
tận thẳm sâu tâm linh cuộc đời mình, thấm
đẫm về chữ "kiếp"
luân hồi ấy để nỗi
xót thương từ trong lòng tác giả trào ra: Em chết, là coi như đã trả hết
nợ đời đó em!... /- Mặt sau của bản
thơ là tiếng kêu cứu xã hội, tiếng
khóc nấc bật ra từ trong khối
cộng đồng của thời
hiện đại này?... Bài thơ chỉ như
một lời khấn cầu
từ bi nơi cửa phật
để thắp cho đứa em tội
nghiệp, cùng những kẻ đáng thương
đã sinh ra ở trên cõi trần ai, một nén nhang đời!".
Vân vân...
B- THƠ
TÌNH PHẠM NGỌC THÁI GIÀU SẮC
THÁI VÀ HAY
Hầu
hết đều xuất phát từ
những mối tình dang dở hoặc tan vỡ.
Tuy tình yêu của nhà thơ với người
con gái đã qua đi, nhưng
trái tim anh vẫn tha thiết, nồng nàn lắm.
Có khi còn tạo ra cả những thiên tình diễm
lệ, rất đa dạng và phong phú.
Tôi có thể kể ra đây một
số tình thơ, như bài « Khoảng
trôi trong lá », được cấu thành dưới gió mưa và trăng sao. Những kỷ niệm
tình yêu xưa trở về cồn
cào, day dứt trái tim thi
sĩ, tạo thành cảm xúc cho thơ trào ra:
Bỗng cồn nhớ một
thời dĩ vãng
Gió cứ trôi không
hữu hạn bến bờ
Nhưng vẫn đó: Em, anh - cuộc sống
Xa nhau rồi! tình
cũ đến bơ vơ...
Tình yêu thì đã
vào bụi cát, nhưng cuộc sống
của anh và em thì vẫn phải tồn
tại... dù trong lòng bao
nỗi nhớ thương:
Có bao lá cây rơi,
em đã vào xa vắng
Lá nuốt em. Giờ sống thế
nào rồi?
Em sung sướng? Ưu phiền? Lãng quên hay bụi
cát?
Mặt trăng trên trời. Tim anh rất mồ côi !
Chỉ có tiếng lá và tiếng
gió vu vi kia đáp lại lời tâm tình đó của anh.
Về thơ tình mùa thu thì sâu lắng và súc tích. Cái cách tả người
yêu của anh thành biểu tượng:
Đôi mắt em bóng
trúc bay xoà...
Đường phúc hậu vầng trăng đầy
nở...
... Môi em cười
hoa lá nát đau thêm.
(Sáng thu vàng)
Để rồi anh hạ
một câu thơ thật đắt:
Người đàn bà, em
nuốt mùa thu tan!
Chữ «nuốt mùa thu» còn mang theo cả ý nghĩa thơ
siêu thực. Hay ở bài « Đêm thu phố vắng »:
Ta sẽ viết cho ai bài thơ đêm thu vắng?
Tiếng trong khuya
em gọi vọng rất xa
Trên thảm lá lòng
ta say đắm
Tha thiết bên em
vì không muốn đêm qua...
Anh đã đem đến cho thi đàn mấy bài thơ mùa thu đặc sắc.
« Thông và biển » là một tình thơ mà đôi trai gái đã được hoá thân vào đất trời, để
ca vọng mãi tình yêu tuổi trẻ:
Anh đứng làm cây
thông trên đá, sỏi
Vi vu kêu... tình thiếu
nữ qua rồi!
Trong cuộc sống đầy
đá, sỏi... Tháng năm thì
như một đoàn tàu nghiền đời ta thành tan nát, nhưng "thông và biển" vẫn
cứ quấn quít mà hát mãi bên nhau.
Chúng hát rằng: Trong sự tồn tại
của đất trời chỉ
có tình yêu là vĩnh cửu!
Nếu ở bài Người
Đàn Bà Trắng, ta bắt gặp một
Phạm Ngọc Thái với cách triết lý về tình yêu - cuộc
sống rất thực tiễn
như đã nói ở trên - thì trong « Em về biển », tình yêu ấy
lại được nhà thơ đẩy cao lên thành một
thần tượng thiêng liêng:
Bờ bãi đời người - Cuộc
sống tình yêu
Trái tim nhỏ em dựng cả toà sen chân Phật
Tổ!
Như nhà thơ Nga M.Lermôntốp
đã thần tượng tình yêu đối với người
đàn bà:
Tượng thờ dù đổ vẫn
thiêng
Miếu thờ bỏ vắng
vẫn nguyên miếu thờ.
Ở bài Một Góc Hồ
Tây tôi thích cái câu thơ:
Thiếu vắng em nên anh lẻ bóng
Lá vàng rơi thay
vào chỗ em ngồi...
Bài thơ vẽ lên một
bức hoạ mà mỗi cảnh
vật đều thấm đẫm
tâm linh của một con người đã bước vào tuổi
hoa niên. Tâm hồn nhà thơ vẫn yêu da diết
nhưng lại chơi vơi
nửa vời bởi sự
cô liêu, đầy sắc hư hao:
Trong tiếng lá
bay... chầm chậm bóng ta theo...
Về « chùm thơ áo trắng », nuối
cảm những tình yêu chớm nở thưở
ban mai. Có những câu thơ hình tượng gợi
vào trái tim làm ta bàng hoàng, da diết:
Tà áo trắng động vào... khe khẽ nát tim anh!
(Thời
áo trắng)
Hay là:
Tà áo trắng trôi dưới dòng mây bạc
Lang thang vài cánh bướm
bơ vơ
Áo trắng in ngang
trời - sét đánh!
Lưỡi dao nào cào nát tim thu?
(Phố thu và áo trắng)
Nhà thơ không khỏi bỡ ngỡ,
thảng thốt như một
giấc chiêm bao. Vừa mới thoáng đây thôi mà mình đã già rồi? Vì thế nên cả thành phố
cũng hiu hắt, cô đơn cùng nỗi lòng anh, muốn níu kéo lại một thuở
nào:
Trả lại cho anh một thời áo trắng
Em đi rồi, mai
thành phố cô đơn!
Trái tim của nhà thơ nhiều khi giống
như một con tầu chở
đầy ắp tình yêu chuyển bánh. Con tầu ấy chạy
qua những cái quán cô quạnh trong tiếng gió hú, những vầng trăng chết
đuối đang trôi, những làn mây lang thang ở chân trời và cả thành phố
đang chìm đắm trong đêm.
Tình yêu người thiếu nữ như
hồi chuông nơi thánh đường trắng trinh,
vuốt ve trái tim
đau nhói của nhà thơ. Trái tim ấy như một
loài hoa không ngủ, nó
bay theo con tầu chuyển bánh đi mãi, đi mãi tới vô cùng:
Quán
cô quạnh suốt đời nghe gió hú
Trăng chết đuối rồi… trắng
dại… đang trôi…
Mây
lang thang dưới chân trời bão tố
Thành phố chìm trong đêm xa xôi.
Và:
Hương đã theo anh và con tầu chuyển bánh
Đến vô cùng mà chẳng biết đi đâu?
(Trong bóng
cây ngủ đêm)
Tình yêu trong
hoài vọng, trong kí ức là vô vi… nhưng nó vẫn như
cánh chim bay xa, mang đến
cho anh cả đau khổ cùng hạnh phúc, khát vọng
và tan vỡ! Những hình tượng thi ca chứa đầy ắp
trong tâm hồn của nhà thơ, theo cảm xúc dào dạt bay ra mà tạo thành hàng trăm áng thi ca
ngập tràn hương sắc.
Có khi chỉ nằm trong nhà nghe thấy
tiếng rúc của một con chim đêm trong bụi cây, với
nỗi trống trải cô dơn
của lòng mình - Thế là tác giả liên tưởng tới
câu chuyện tình của đôi chim:
Chim gọi đàn - Anh
gọi tên em
Năm tháng, nắng mưa, non ngàn, bão tố
Có
lẽ nào em không về nữa?
Để hồn anh hoang mạc
bơ vơ...
Và chuyện "tình chim" trở thành chuyện "tình người". Mối tình cũ lại gợi về:
Đã
xa rồi! Mùa dĩ vãng trăng
mơ
Đời vui vẻ cuốn
theo dòng gió bụi…
Để rồi:
Con
chim đêm run rẩy bóng
xanh già
Anh
bổi hổi một thời
qua vọng lại...
(Tiếng rúc chim đêm)
Đó là tiếng run rẩy của con chim? Không! Đó là tiếng run rẩy của trái tim thi sĩ còn vọng mãi vào năm tháng xa xôi, vô cùng, vô tận kia. Tiếng lòng của anh vọng gọi
người yêu!? Thơ đã mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc trong tình yêu và sự sống
con người.
Thơ tình của Phạm
Ngọc Thái nhiều vô kể, sâu sắc
và không ít thi phẩm đã đạt được tầm
vóc là những bài thơ tình hay! Hầu hết đều là thơ
tự do hiện đại. Tác giả
rất coi trọng tính nhạc và giọng điệu
nên thơ đọc cuốn hút, truyền
cảm được trái tim đời. Có thể nói, thơ Phạm Ngọc
Thái như một bầu trời
mênh mông sâu thẳm... được chẩy ra từ
trong máu tim và cuộc đời. Càng đọc sâu càng thấm thía.
NGUYỄN THỊ HOÀNG
Giảng viên Trường ĐH Sư phạm
No comments:
Post a Comment