Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Monday, June 16, 2025

GIỮ LẠI NHỮNG GIAO THOA DỊU DÀNG: BÓNG, HƯƠNG, NỤ CƯỜI VÀ NỖI NHỚ

 

Giới thiệu bài viết của các tác giả: KIỀU GIANG, DIỆU THU, NGA VŨ, LÊ VINH DỰ



NGƯỜI ĐI TÌM BÓNG MÌNH

Truyện ngắn Kiều Giang.

Giữa khuya mồng hai Tết, trong giấc ngủ chập chờn, hắn thấy một con ngựa ô, không biết từ đâu, xông vào nhà hắn, hất tung cái kính cổ treo trên tường, lồng khung gỗ mun bóng loáng, được tổ tiên hắn truyền lại qua nhiều đời. Cái kính vụn vỡ. Hắn lặng câm chết điếng. Mấy ngày liền hắn bỏ ăn, bỏ làm, mặt thất thần ngây ngây dại dại, quanh quẩn mãi trong nhà, không nói với ai một lời.

Sau cái đêm kinh hoàng ấy, hắn thấy bầu trời như tối sầm, những vầng mây đen hoang dại như cứa lên thân phận hắn, mặt đất run cầm cập, không hiểu sao, hắn lại lẩm bẩm “ thế là hết”. Và con ngựa hoang cũng đã mất dạng vào bóng đêm, ma quái, huyễn hoặc.

Người ta lại thấy hắn lặng lẽ, mặt cúi gầm, nhặt từng mảnh kính vỡ, không sót một mảnh nào, cho vào một chiếc túi vải, đem cất trong buồng riêng, khóa chặt cửa, có người cười, bảo là hắn điên, cất làm gì, sao không đổ phứt đi, rồi mua cái kiếng khác. Miệng hắn ngậm như thóc, lạnh lùng, chỉ đưa mắt nhìn xa xôi.

Rồi một ngày, bất ngờ, người ta thấy hắn trải một tấm khăn lụa trắng, mới tinh, mà hình như hắn đã cất giữ từ lâu lắm, không ai hay như chính thân phận hắn, lên chiếc bàn của bộ trường kỷ chạm xà cừ lấp lánh, cha hắn truyền lại cho hắn. Hắn dán từng miếng kính vỡ lên chiếc khăn lụa rồi ngồi thừ người ra. Không biết hắn thấy gì trong những miếng kính vừa ráp lại? Chênh vênh. Nhăn nhúm. Lỗ chỗ những khoảng trống. Có lẽ, may ra còn thấy được cái bóng chập chờn của hắn, vì tấm kính trước khi vỡ, cũng đã úa mờ.

Đêm hôm sau , hắn không ngủ, vào phòng mình, đóng chặt cửa, treo tấm lụa lên tường, tĩnh tọa trước ngọn nến trắng, đăm đăm soi bóng mình trước chiếc kính mà hắn vừa chắp vá, ráp lại, hắn giật mình thấy hàng ngàn chiếc bóng của hắn hiện lên những mảnh kính vỡ, nhưng tất cả đều lộn ngược, tất cả không còn theo một trật tự nào cả, râu tóc hắn bỗng chốc trắng như mây, đang bị thổi tung trong bầu trời đầy giông bão, nỗi buồn ẩn sâu vào đôi mắt, ánh lên niềm khát vọng xa xôi, bí ẩn như một huyền ngôn, mà chính hắn cũng vô cùng kinh ngạc. Có điều lạ hơn là chi chít những con chữ bám đầy lên người hắn, không tạo thành một câu chữ nào mà hắn có thể hiểu được, một thứ mật ngữ đang bám theo hắn, hắn bất lực, không thể giải mã. Hắn thật sự không hiểu, cái xác thân hắn đang ngồi đây và cái bóng trong từng mảnh gương kia, cái nào là có thật, hay cả hai đều thật, hay cả hai đều ảo, tâm hồn hắn trở nên bấn loạn.

Nếu như cha mẹ hắn không để lại ngôi nhà, không có con ngựa ô xông vào đêm mồng hai Tết, làm vỡ chiếc gương soi của hắn, và hắn không tỉ mỉ ráp lại từng mảnh kính vỡ, thì có lẽ hắn đã không phải đứng trước nỗi kinh hoàng này.

Bây giờ hắn lại cười, nhưng nụ cười chưa kịp mở, lại cũng tắt ngay trên môi. Trong chiếc gương vỡ lại hiện lên cảnh mẹ hắn bế hắn đứng trước gương, lúc hắn sáu tháng tuổi, nhưng tất cả đều chổng ngược, thấp thoáng  hình một bà già bế một đứa con nít nhưng râu tóc đã bạc phơ, đứa trẻ nhoẻn miệng cười, háo hức chồm người vào trong gương, như muốn thoát khỏi tay mẹ… Hắn ngậm ngùi như muốn níu lại thời gian. Nhưng hắn biết rõ là mình bất lực, hắn nhắm mắt.

Khi hắn mở mắt ra, một cảnh tượng kỳ bí lại diễn ra trước mắt hắn, trong gương. Bất giác hắn òa khóc, khóc ngon lành như trẻ con, khóc như chưa bao giờ được khóc, thèm khát khóc, nước mắt hắn như từ suối nguồn vô tận, thê thảm, chua chát, cứ tưởng rằng đó là cảnh đưa tang mẹ hắn, vì quá thương mẹ nên hắn đã ứa máu con tim, nhưng không, đó là một ngày vui nhất đời hắn, một đám cưới.

Lạ thật, một luồng ký ức thoáng qua đầu hắn, nếu như đám cưới ngày xưa của hắn tưng bừng rộn rã sang trọng bao nhiêu thì cảnh hôm nay trong gương, lại hiu hắt, tiêu điều, khốn cùng bấy nhiêu. Hôm ấy là một buổi sáng cuối đông, đầu xuân, trên nền trời trong xanh, những cánh én đang làm bổn phận mà đất trời đã giao cho chúng, chiếc xe hoa lướt nhẹ trên đường rộn rã tiếng chim, chú rể dìu cô dâu trong tiếng pháo giòn tan cùng tiếng vỗ tay chào mừng của hai họ và bạn bè. Cả không gian và thời gian như hoàn toàn thuộc về hai người, đêm ấy họ leo lên thiên đàng tình ái không cần mượn thang của chúa trời. Nhưng sao hôm nay lại là một ngày mưa dầm, quan cảnh thê lương tiêu điều, chiếc xe hoa lội nước trên đường, những cành hoa gắn trên xe sũng ướt, rũ rượi tả tơi, bầu trời mây đen vần vũ, hình ảnh đôi uyên ương chập chờn mờ nhạt, nhăn nhở, nức nẻ.

Hắn lại thấy bão tố nổi lên nơi hang động yêu đương, đèn hoa ngậm ngùi sương gió, hắn bắt đầu một đoạn đường đời tàn lụi ái ân, nhìn vào tấm gương vỡ, hắn lại khóc, hắn lẩm bẩm trong đầu “không, không phải, nhất định không phải đám cưới của ta”.

Những mảnh gương vỡ lại tiếp tục hiện về những hình ảnh ngược, người ta cắm đầu xuống đất để chém giết nhau, nhưng máu lại cứ chảy ngược lên trời, bầu trời nhuộm một màu đỏ thẫm, máu và lửa đang bao trùm đời hắn, nhưng thật kỳ lạ,  không nhuộm đỏ, cũng không đốt cháy được những con chữ cứ bám chặt theo hắn, hòa vào máu của hắn, một tồn tại bất tử và thầm lặng. Lại một lần nữa, hắn cảm thấy bơ vơ, ngỡ ngàng trước số phận.

Rồi hắn thấy mình cố bước đi trong gương về phía trước, mặc cho máu và lửa vẫn cứ bám theo hắn, một cuộc rượt đuổi hình như vô tận…

Đêm ấy hắn ngất đi trước tấm gương, bên cạnh ngọn nến trắng vẫn còn đang cháy.





TẢN VĂN: CÒN MÃI CHÚT HƯƠNG XƯA

- Phạm Thị Diệu Thu -

Chiều nay đi làm về qua phố Nghĩa Tân, bất chợt gặp những gánh hàng hoa bưởi của các chị, các cô bày bán trên đường. Nhìn những chùm hoa trắng muốt tinh khôi, mộc mạc và giản dị tỏa hương thoang thoảng, dịu ngọt tôi như được trở lại tuổi thơ thuở nào…

Ngày ấy, cách đây hơn ba mươi năm, cũng vào dịp cuối tháng 2, đầu tháng 3 như thế này, để tiện cho việc dạy dỗ và trông nom của mẹ, tôi tạm xa ngôi nhà thân quen trên con phố cổ nhưng sầm uất để về tá túc tại một huyện thuộc ngoại thành Hà Nội. Sống xa nhà nhưng sẵn trong mình sự háo hức của con trẻ nên vùng ngoại thành ấy chẳng có gì là lạ lẫm, xa xôi với tôi cả. Tôi nhanh chóng bắt nhịp với cuộc sống mới ở nơi ấy. Không những thế, chỉ vài hôm đến với nơi ở mới tôi đã bị mê hoặc bởi hương thơm dịu ngọt của những chùm hoa trắng muốt trên những cây bưởi của hàng xóm. Chiều chiều, tôi lại theo chân các anh chị đi nhặt hoa bưởi, những bông hoa như muôn ngàn vì sao rơi trước sân nhà, sau đó dùng kim chỉ xâu lại thành những chiếc vòng tay xinh xắn. 

Tôi rất yêu cái mùi thoang thoảng, dịu ngọt của hoa bưởi nên lúc nào tôi cũng sợ không được chơi với những chùm hoa bưởi thanh tao mà tinh khiết ấy nữa. Khoảng hai ngày một lần, tôi lại theo mẹ sang nhà hàng xóm, xin lá bưởi và vài chùm hoa bưởi về nấu cùng mấy quả bồ kết để gội đầu. Nằm cạnh mẹ mỗi khi đêm về, gối đầu lên chiếc gối mềm êm ả, tôi có cảm giác như từng sợi tóc của mẹ đang tỏa ra thứ hương thơm phảng phất vừa bình dị lại vừa thanh khiết đến lạ kỳ. Những lúc như thế, tôi lại thấy không khí xung quanh trở nên ngọt ngào, êm ái biết nhường nào! 

Tôi vẫn nhớ việc mẹ tôi thường ướp hoa bưởi với mía. Dù đã lâu lắm rồi nhưng trong ký ức của tôi vẫn còn thấp thoáng hình ảnh mẹ ngồi róc và tiện những tấm mía thành từng khúc nhỏ đều tăm tắp. Để có được món mía ướp hoa bưởi hoàn hảo thì ngoài việc chọn mía, khâu chọn hoa bưởi cũng phải được tiến hành thật tỉ mỉ. Mẹ bảo: Nếu cánh hoa bưởi nào uốn quá cong thì đó là những bông đã nở từ hôm trước, hương hoa đã bay đi ít nhiều, còn nếu cánh hoa nào chưa nở thì cũng chưa đủ chín để tỏa hương. Sau khi đem số hoa bưởi xin được đi rửa sạch, mẹ tôi cho hoa bưởi vào những hộp mía rồi lấy nắp đậy lại, chỉ khoảng hơn 1 tiếng đồng hồ là mọi người đã có thể cảm nhận được sự hòa quyện của hương hoa vừa ướp rồi.

Ngày ấy, vì hầu hết các gia đình đều chưa có tủ lạnh nên mẹ tôi thường múc nước giếng đổ vào một chiếc nồi, đặt hộp mía vào đó để “ướp lạnh”.  Không bao lâu sau, vị ngọt thanh tự nhiên của mía dần hòa quyện với hương thơm nồng của hoa bưởi để tạo nên một mùi hương hỗn hợp dịu ngọt mà thanh khiết, khó phai…

Sau khoảng mười năm sống ở huyện ngoại thành, tôi và mẹ lại quay trở về với ngôi nhà quen thuộc trên khu phố cổ chật chội và đông đúc. Chia tay mảnh đất mang đậm hương sắc quê hương, có nhiều đêm tôi nhớ cồn cào, nhớ da diết những chùm hoa bưởi thân quen của vùng ngoại ô thanh bình ngày nào. Và may mắn làm sao, khoảng vài năm trở lại đây, tôi như tìm lại được tuổi thơ của mình qua những gánh hàng hoa bưởi của các cô, các chị bày bán trên khắp nẻo đường, góc phố ở Hà Nội. Trong cái hối hả, tất bật của ngày mới, tôi vẫn nán lại bên gánh hoa bưởi còn đọng những giọt sương đêm mua vài chùm hoa để nhớ về một tuổi ấu thơ ngọt ngào và êm ái. Phải rồi, chùm này tôi sẽ để ở trên bàn làm việc, còn chùm kia tôi dành ướp mía; gói này sẽ để gội đầu.

…Thời gian dần trôi, tưởng như đã phải vĩnh viễn chia xa chút hương xưa mộc mạc, nhưng khi được nhìn thấy đâu đó trên phố phường Hà Nội những gánh hàng hoa bưởi mà bao kỉ niệm thuở ấu thơ cùng những chùm hoa trắng muốt tinh khôi, mộc mạc giản dị với mùi hương thoang thoảng, dịu nhẹ lại sống dậy chợt ùa về và xao xuyến trong tôi.




NỤ CƯỜI TOẢ NẮNG

(NGA VŨ) 

Đã hai mươi năm từ ngày em đi xa. 

Cậu học trò mà " nụ cười nắng nghiêng chao" đã thực sự ra đi ...

Nhớ về em là cả một chuỗi kỷ niệm đong đầy trong tôi. 

Em học tôi năm 11 và 12  

Lớp tôi chủ nhiệm là một lớp ban giám hiệu liệt vào lớp cá biệt. Nhưng tôi rất yêu các em . Đó là những cậu bé, cô bé thông minh sáng dạ. Học giỏi,nghịch ngợm,nhưng rất đáng yêu. 

Tôi đã bao lần vì binh vực học trò mình mà khóc như đứa trẻ. 

Các em cũng rất yêu quí tôi, chỉ cần thấy cô ở đâu là xúm lại tranh nhau kể đủ loại truyện trên đời.

Hôm ấy là thứ hai, lớp nhập học hơn tuần, thầy giám thị dẫn em vào lớp với tờ giấy của BGH , tôi kêu em tự giới thiệu tên mình với các bạn . 

Em lúng túng và nhoẻn miệng cười. Tôi hơi bất ngờ vì bộ dạng em khá vụng về , nước da ngăm với cái cằm vuông nhìn em già dặn so với các bạn trong lớp. Nhưng nụ cười rộng mở khiến gương mặt em sáng bừng thiện cảm.

Em là Đỗ Kim Phượng, cái tên con gái khác hẳn với con người. Cả lớp vỗ tay chào em . 

 Em học trễ hai năm vì gia đình khó khăn,em tạm nghỉ học chạy xe lam để phụ giúp Mẹ, giờ kinh tế tạm ổn nên xin học lại . 

Em học rất giỏi và năng động, tôi giao nhiệm vụ lớp phó lao động cho em,các

bạn cũng rất quí em. 

Lúc đó tôi cũng mới ratrường còn rất trẻ, bao nhiêu lý tưởng thời sinh viên

tôi dồn hết vào nghề . Lớp tôi chủ nhiệm như một gia đình mà tôi là chị cả.

Chúng tôi cùng nhau học tập , cùng nhau lao động trong các buổi lao động XHCN. Phượng luôn là kiện tướng trong đánh giá của trường . Em chẳng nề hà việc nặng nhẹ , lúc nào cũng đi đầu với nụ cười toả nắng. 

Cuối cấp,em thi đậu vào trường đại hoc Bách Khoa ,khoa cơ khi và xin vào làm trong nhà máy thuốc lá Saigon. 

Thỉnh thoảng em vẫn ra shop tôi bán ( vì lúc đó tôi đã nghỉ dạy ) .Đối với em,tôi luôn là cô giáo mà em kính trọng nhất. 

Bẵng một thời gian tôi và em không gặp nhau , tôi đổi chỗ bán vì cv không thuận lợi.Một buổi chiều đang ngồi buồn vì vắng khách , bỗng có hai người bước vào nghẹn ngào gọi tôi : 

- Cô ơi anh Phượng sắp chết!

Tôi sững người , đó là hai em của Phượng là Tống ( cũng là học trò tôi và cũng là kỹ sư làm việc ở nhà máy với Phượng và là con rể của nhạc sĩ Trương quang Lục) và Sỹ em út. 

Tôi vội vàng theo Tống và Sỹ đi gặp em . 

Bước vào nhà, mẹ em ra đón bà nức nở gọi em :

-Con ơi cô giáo lại thăm con, con tỉnh lại đi!

Tim tôi thắt lại , em nằm đó hôn mê. 

Một thanh niên khoẻ mạnh , nụ cười thân thiện đâu rồi ! Trước mắt tôi, một thân hình tàn tạ với mái tóc lưa thưa , mắt nhắm nghiền  , hơi thở nhẹ như gió thoảng. 

Đỗ Kim Phượng của tôi đây sao ? Cơn bịnh ung thư đã tàn phá cơ thể em một cách đáng sợ . Tôi không thể nào nhận ra em .

Tôi vuốt trán em, trái tim tôi như vỡ tung , nỗi đau như xé lòng làm tôi không thở được !  

Vợ em khóc oà : 

- Em xin lỗi anh , em đã không tìm được cô khi anh tỉnh, anh ơi ! 

Mẹ em cho biết khi biết mình ung thư giai đoạn cuối,em đã nhờ gia đình tìm tôi, lúc đó tôi đã chuyển nơi khác và vợ em không có số điện thoại của tôi . May nhờ người quen chỉ nên Tống tìm được. 

Tôi cúi xuống hôn lên trán em thì thầm:

- Cô đây , em tỉnh lại đi một lần cũng được . Cô muốn em biết mọi người đều yêu quí em.Em hãy tỉnh lại em nhé !

Em đã không tỉnh lại. 

Một tuần sau em mất. 

Khi lại tiễn em lần cuối, tôi không hiểu sao khi tôi lại gần quan tài em để nói lời vĩnh biệt, đầu tôi đau như ai đập mạnh, nhưng bước ra ngoài thì lại bình thường. Tống nói chắc anh Phượng nuối cô ! 

Tôi không biết điều đó có đúng không , nhưng sự ra đi của em đã làm một góc trong tim tôi tổn thương ! 

Rất nhớ em, vầng mây trắng trong trái tim tôi.




BỐ NHỚ CON    (Lê Vinh Dự)

Tản văn   (Tặng 3 cô gái của bố:  Líp, Gâu, Dừa)

Năm con vào trường mẫu giáo, bố chở con đi học bằng chiếc Hàn Quốc mua lại giấy tờ Miên.* Trên đường đi, trong lúc dựng xe ngoài sân trường và cả khi chia tay ở cửa phòng học, con cứ nói mãi một câu: "Bố ơi! Hết giờ, bố rước con sớm nhứt nghen, bố".

Bố cũng lặp đi lặp lại không biết chán: "Ừ! Bố sẽ đến sớm nhất!".

Suốt thời con học mẫu giáo, chỉ có một lần Bố không phải là người đến sớm nhất. Trời đang mưa, bố chạy nhanh quá, không tránh kịp chiếc xe tải bất ngờ quẹo cua, đành thắng gấp. Chiếc xe lết đi mấy chục mét, Bố ngã nằm dưới gầm xe tải. May mà thoát chết! Lồm cồm bật dậy, chạy đến trường, hối hả ẵm con, hối hả xin lỗi. Con làm thinh, nhìn mãi mặt bố, lâu lắm, chợt nói: "Bố ơi, sao trán bố có máu?".

Năm con vào tiểu học, đường đến trường xa hơn. Bố vẫn chở con trên chiếc cũ mèm. Buổi sáng, hễ chia tay nhau ngoài cổng trường là con nhắc: "Bố ơi! Bố cứ đứng đây nghen, bố! Khi nào con vô lớp rồi bố hãy về nghen, bố!". "Ừ! Bố sẽ đứng đây! Đừng lo!".

Con đi qua sân, đến tận hành lang phòng học vẫn quay ra, dáo dác ngó, xem bố có còn đứng đó hay không. Bố đứng nhìn cái lưng nhỏ xíu của con lẫn trong đám học trò, giơ tay thật cao cho con thấy, đợi đến khi con vào lớp mới chạy vội cho kịp giờ dạy.

Suốt thời con học tiểu học, cũng chỉ đúng một lần bố không đứng lại mà hộc tốc chạy đi. Bố chạy hơn trăm mét, bỗng giật mình, nôn nao, khó chịu lạ lùng, đành quay lại, len qua cánh cổng trường sắp đóng, nhìn vào, thấy con đứng tần ngần giữa hành lang vắng.

Lúc thấy bố ló đầu vào, ánh mắt con sáng lên như có một giọt nước phản chiếu ánh nắng sớm. Con giơ tay, mỉm cười, miệng mấp máy như muốn nói: "Chạy nhanh lên, bố. Cho kịp giờ! Con vào lớp nghen!". Ông bảo vệ chưa đành đóng cổng trường, lắc đầu, cười: "Bữa nào cũng vậy!".

Năm con vào cấp II, trường xa thêm chút nữa. Chiếc Citi cà tàng giờ uống xăng như uống nước, tuần nào cũng phải đem đến tiệm sửa hai, ba lần, nên bố và con phải thức sớm, dẫn xe ra hẻm, đạp cho nó nổ máy, phun khói đen mù mịt một lúc mới chịu chạy êm. Bố không còn đón con sớm nhất nữa mà có khi trễ, rất trễ vì thỉnh thoảng xe xì vỏ, nghẹt xăng...

Một lần, mưa rất to, đường xá chìm trong nước. Xe ướt bugi, chết máy. Bố xuống xe, dặn: "Con cứ mặc áo mưa, ngồi trên xe để bố dẫn qua chỗ ngập".Bố lội bì bõm trong nước, đẩy xe len trong dòng người cũng đang vật vã với cảnh nước ngập đến đùi.

Bỗng thấy chiếc xe nhẹ hơn, quay lại, thấy con đã cởi áo mưa, nhảy xuống từ lúc nào, cắn răng đẩy tiếp. Bố và con về đến nhà ướt mem, vậy mà vẫn nhìn nhau cười. Năm con vào cấp III, trường xa lắm, mỗi ngày hai lượt đi, về hơn 20 cây số. Chiếc Citi đã bán cho đồng nát.

Bố mua chiếc mới, không còn sợ cảnh chết máy dọc đường. Con ngồi phía sau, nói đủ chuyện trên đời: chuyện nhà, chuyện trường, chuyện thầy cô, bè bạn... Có khi xe đã đến cổng trường mà chuyện còn chưa dứt.

Trong tiếng mưa, tiếng còi chói tai, tiếng máy xe gầm rú, tiếng cãi vã, hò hét xô bồ giữa đám khói bụi, giữa những ngã tư, ngã năm ùn ứ người và xe giờ cao điểm, bố vẫn nghe rất rõ tiếng con liến thoắng, vì tiếng nói đó ở ngay sau lưng.

Ngày con thi đại học, chở con đến trường rất sớm rồi chờ ngoài cổng, chen chúc trong nhóm cha mẹ cũng ngồi chờ con, hết đứng lại ngồi. Gặp vài học sinh nộp bài ra sớm, cả nhóm nhao nhao bu lại hỏi: "Ra tác phẩm gì, con?", "Đề khó không, con?"...

Bố chạy mua một ly nước mía, đợi con ra khỏi cổng trường là vội vã đưa: "Uống đi con! Cho khỏe rồi về! Làm bài được không, con?". Con cầm ly nước mía, ngó bố, chớp mắt mấy cái như bối rối: "Chắc không tệ bố à!". "Đâu, đưa đề bố coi!".

Con cười, lấy đề đưa cho. Bố cắm cúi đọc, toàn số và hình, công thức và đồ thị, chẳng biết ất giáp gì. Nhưng thôi, cứ lướt qua cho yên tâm.

Con đi học xa, vậy mà thỉnh thoảng, trong giấc ngủ, Bố vẫn hay choàng tỉnh, hoảng hốt vì hình như đã thức dậy trễ giờ đưa con đi học. Biết rằng ở thành phố, chiếc xe là phương tiện tối hậu, nếu không con phải thức sớm, đi bộ cả quãng đường ba cây số từ ký túc xá đến lớp mới kịp giờ, nhưng cứ dụ dự mãi vì lo tình hình giao thông phức tạp, lỡ có bề nào...

Cuối cùng, đành bấm bụng đem chiếc Future lên Sài Gòn cho con đỡ chân. Căn nhà chật chội vì thường khi có chiếc xe dựng chiếm chỗ, giờ bỗng rộng mênh mông. Cứ thấy thiêu thiếu một cái gì!

Con ra trường rồi ở lại Sài Gòn làm việc. Bố đi thăm con, đang chờ ngoài cổng bến xe Miền Đông thì nghe con gọi. Con chạy chiếc Future bố cho, trờ tới, với tay xách túi đồ, nói: "Lên xe đi bố! Con chở bố về". Bố ngồi sau lưng con, đi qua chằng chịt phố xá, xe chen xe, người chen người, hoa cả mắt.

Con luôn miệng giải thích: "Ở đây người ta chạy nhanh lắm, không giống ở quê mình!", "Chỗ này có quán ăn miền Trung nè!", "Mình vừa qua Đầm Sen đó "...

Bố làm thinh nghe con nói, tiếng nói không còn vang lên từ phía sau mà từ phía trước. Hết nghe rồi lại nhìn! Bố nhìn thấy sự lớn chững chạc của con gái, rưng rưng nhớ cái lưng nhỏ xíu của con ngày mới vào tiểu học.

Rồi bố nhìn con đường trước mặt, dài thăm thẳm, lóa nắng, ngập khói bụi, ken đặc xe cộ, nửa ngao ngán, nửa thắc thỏm, tưởng tượng những sáng, những chiều, những tuần... con từ nhà đến chỗ làm rồi từ chỗ làm về nhà trên chiếc Future đã cũ.

Bố nói: "Ráng làm có tiền đổi xe mới đi, con! Chiếc này tệ lắm rồi!". Con quay lại, đùa: "Còn chạy tốt mà bố! ". Bố cười cười, mắng con: "Cũng vịt giời thôi!...". Con cười hồn nhiên. Bố mắng -Tổ cha mày !






No comments: