VÀO TRẠI PHUNG QUY HÒALÀM THƠ GỬI HÀN MẠC TỬTa cười cợt với yêu ma xương cốtThoáng trong mây rờn rợn bát trăng sầuĐất sẽ ướt tình ta như chuột lộtTrời cũng buồn như lớp lớp mộ bia.Ta nhảy nhót với bóng ta vã xuốngMột đời vui đem gói lại cho ngườiMột đời buồn gửi lại ở bên taTrong khuya khoắt nụ tầm đông chợt nở.Ta sẽ sớt hồn ta cho cây cỏCây sẽ xanh và cỏ hết bạc lòngTa sẽ thả hồn ta cho trời đâtTrời ra hoa và đất hết vô tâmTa vui quá ôi chao ta vui quáDịch Thủy buồn đâu vì lỗi Kinh KhaTrong tiếng kêu có chút gì là lạSao dưng không thinh lặng đến vô thường.Nơi quạnh vắng cõi lòng ta thăm thẳmẤy bao dung lồng lộng gửi cho ngườiTrong chiu chắt tình ta phơi phới lắmNgó xuống đời bạc phếch tuổi hai mươi.Phương Tấn(Quy Nhơn 1973)
ĐỌC “VÀO TRẠI PHUNG QUY HÒA LÀM THƠ GỬI HÀN MẠC TỬ” THƠ PHƯƠNG TẤN
Châu Thạch
Thơ Phương Tấn có nhiều bài đọc thấy hay và dễ hiểu. Thơ Phương Tấn cũng có nhiều bài đọc khó hiểu, khó hiểu mà vẫn biết hay, như nhìn một bức tranh trừu tượng với nét vẽ ẩn dụ nhiều ý tưởng. Những ý tưởng ấy, mơ hồ trong sâu xa ta cảm nhận được sự “Trong sáng vô biên và quyến luyến” của nó . Tôi không đủ trình độ để xác nhận những bài thơ như thế có phải là thơ siêu thực hay không, nhưng thật sự đọc những bài thơ ấy ta cảm nhận được hư và thực lẩn lộn trong nhau như một giấc mơ đem đến cho ta những cảm xúc phiêu bồng, tưởng mình được nhẹ như chỉ có linh hồn bay trong cõi thơ hư hư, thực thực!
Bài thơ “Vào Trại Phung Quy Hòa Làm Thơ Gửi Hàn Mạc Tử” đối với tôi phải cần suy tư nhiều để hiểu, nhưng tôi cảm nhận được nó thật sự là hay, hay không thua bất cứ bài thơ nào của các thi nhân thơ Mới trong và ngoài Tự Lực Văn Đoàn.
Năm 1938, khi bệnh bắt đầu trở nặng, Hàn Mạc Tử chịu đựng những cơn đau của mình. Nhà thơ dùng thơ để làm dịu bớt những cơn đau ấy, từ đó “Máu Cuồng và Hồn Điên” ra đời. Bình về “Máu Cuồng và Hồn Điên”, Hoài Thanh trong “Thi Nhân Việt Nam” viết: “Trăng, toàn trăng, một ánh trăng gắt gao...Trăng ở đây cũng ghen, cũng giận, cũng cay nghiệt, cũng trơ tráo và cũng náo nức dục tình. Hàn Mạc Tử đi trong trăng, há miệng cho máu tung ra làm biển cả, cho hồn văng ra, và rú lên những tiếng ghê người...Trời đất này thực của riêng Hàn Mạc Tử, ta không hiểu được và chắc cũng không bao giờ ai hiểu được...”
Nhà thơ Hàn Mạc Tử trút hơi thở vào ngày 11-11- 1940. Mộ nhà thơ lúc đó được đặt dưới chân núi Quy Hòa. Sau hơn 18 năm chôn cất tại đây, ngày 13-1-1959, gia đình và bè bạn đã làm lễ cải táng Hàn Mặc Tử lên đồi Thi Nhân (Ghềnh Ráng – Quy Nhơn). Năm 1991, trên mộ cũ của Hàn ở Quy Hòa, người ta đã xây dựng một đài tưởng niệm. Bệ lớn dưới chân tượng đài thể hiện Hàn Mặc Tử là người góp phần đặt nền móng cho thơ ca Việt Nam hiện đại. Trên bệ là hình cuốn sách lật ngửa, như trang đời và trang thơ của Hàn Mặc Tử còn dở dang. Phần trên đỉnh vừa tượng trưng cho hình ảnh bút nghiên của thi sĩ vừa là hình cây thánh giá. Bờ tường trước đài thể hiện hình ảnh vầng trăng luôn ẩn hiện trong thơ Hàn. "Ta bay lên, ta bay lên!/ Gió tiễn đưa ta với nguyệt thiềm/ Ta ở cõi cao nhìn trở xuống/ Lâng lâng mây khói quyện trăng đêm".
Năm 1973 nhà thơ Phương Tấn vào nghĩa địa tại trại phung Quy Hòa dưới chân núi Trứng thăm ngôi mộ cũ của Hàn Mạc Tử và bài thơ gởi Hàn Mạc Tử ra đời.
Hãy đọc khổ thơ đầu tiên:
Châu Thạch
Thơ Phương Tấn có nhiều bài đọc thấy hay và dễ hiểu. Thơ Phương Tấn cũng có nhiều bài đọc khó hiểu, khó hiểu mà vẫn biết hay, như nhìn một bức tranh trừu tượng với nét vẽ ẩn dụ nhiều ý tưởng. Những ý tưởng ấy, mơ hồ trong sâu xa ta cảm nhận được sự “Trong sáng vô biên và quyến luyến” của nó . Tôi không đủ trình độ để xác nhận những bài thơ như thế có phải là thơ siêu thực hay không, nhưng thật sự đọc những bài thơ ấy ta cảm nhận được hư và thực lẩn lộn trong nhau như một giấc mơ đem đến cho ta những cảm xúc phiêu bồng, tưởng mình được nhẹ như chỉ có linh hồn bay trong cõi thơ hư hư, thực thực!
Bài thơ “Vào Trại Phung Quy Hòa Làm Thơ Gửi Hàn Mạc Tử” đối với tôi phải cần suy tư nhiều để hiểu, nhưng tôi cảm nhận được nó thật sự là hay, hay không thua bất cứ bài thơ nào của các thi nhân thơ Mới trong và ngoài Tự Lực Văn Đoàn.
Năm 1938, khi bệnh bắt đầu trở nặng, Hàn Mạc Tử chịu đựng những cơn đau của mình. Nhà thơ dùng thơ để làm dịu bớt những cơn đau ấy, từ đó “Máu Cuồng và Hồn Điên” ra đời. Bình về “Máu Cuồng và Hồn Điên”, Hoài Thanh trong “Thi Nhân Việt Nam” viết: “Trăng, toàn trăng, một ánh trăng gắt gao...Trăng ở đây cũng ghen, cũng giận, cũng cay nghiệt, cũng trơ tráo và cũng náo nức dục tình. Hàn Mạc Tử đi trong trăng, há miệng cho máu tung ra làm biển cả, cho hồn văng ra, và rú lên những tiếng ghê người...Trời đất này thực của riêng Hàn Mạc Tử, ta không hiểu được và chắc cũng không bao giờ ai hiểu được...”
Nhà thơ Hàn Mạc Tử trút hơi thở vào ngày 11-11- 1940. Mộ nhà thơ lúc đó được đặt dưới chân núi Quy Hòa. Sau hơn 18 năm chôn cất tại đây, ngày 13-1-1959, gia đình và bè bạn đã làm lễ cải táng Hàn Mặc Tử lên đồi Thi Nhân (Ghềnh Ráng – Quy Nhơn). Năm 1991, trên mộ cũ của Hàn ở Quy Hòa, người ta đã xây dựng một đài tưởng niệm. Bệ lớn dưới chân tượng đài thể hiện Hàn Mặc Tử là người góp phần đặt nền móng cho thơ ca Việt Nam hiện đại. Trên bệ là hình cuốn sách lật ngửa, như trang đời và trang thơ của Hàn Mặc Tử còn dở dang. Phần trên đỉnh vừa tượng trưng cho hình ảnh bút nghiên của thi sĩ vừa là hình cây thánh giá. Bờ tường trước đài thể hiện hình ảnh vầng trăng luôn ẩn hiện trong thơ Hàn. "Ta bay lên, ta bay lên!/ Gió tiễn đưa ta với nguyệt thiềm/ Ta ở cõi cao nhìn trở xuống/ Lâng lâng mây khói quyện trăng đêm".
Năm 1973 nhà thơ Phương Tấn vào nghĩa địa tại trại phung Quy Hòa dưới chân núi Trứng thăm ngôi mộ cũ của Hàn Mạc Tử và bài thơ gởi Hàn Mạc Tử ra đời.
Hãy đọc khổ thơ đầu tiên:
Ta cười cợt với yêu ma xương cốtThoáng trong mây rờn rợn bát trăng sầuĐất sẽ ướt tình ta như chuột lộtTrời cũng buồn như lớp lớp mộ bia.
Đây là những cảm xúc đầu tiên khi nhà thơ bước vào khu nghĩa địa.
“Cười cợt” là hành động chế nhạo. Phương Tấn mới bước vào nghĩa địa đã cười chế nhạo với những linh hồn mà xương cốt còn vùi chôn nơi đây. Có lẽ ta phải hiểu đây chỉ là phản ứng chống lại sự sợ hãi khi đứng ở một nơi mà tác giả cho rằng chỉ toàn “yêu ma và xương cốt”. Bước vào nơi đây, nhà thơ nhớ ngay những bài thơ trăng của Hàn Mạc Tử, và những bài thơ ấy làm cho tác giả có cảm giác bầu trời như ban đêm, có trăng và mưa lạnh trên lớp lớp mộ bia. Cụm từ “một bát trăng sầu” làm cho ai đọc thơ cũng lạnh gáy, lại thêm “Ướt như chuột lột”, “lớp lớp mộ bia” làm cho khung cảnh vô cùng ảm đạm.
Khổ thơ đầu tiên tác giả đã vẽ một bức tranh sầu, sầu như đời Hàn Mạc Tử, sầu như bệnh phung Hàn Mạc Tử, sầu như tình Hàn Mạc Tử và sầu như cái chết Hàn Mạc Tử. Khổ thơ diễn tả hoàn toàn thật những xúc động khi nhà thơ bước vào một khung cảnh cô liêu, tưởng nhớ lại người xưa, một nhân tài nhưng gánh chịu đau thương vì thất tình, cô đơn và đau đớn thể xác.
Khổ thơ thứ hai:
“Cười cợt” là hành động chế nhạo. Phương Tấn mới bước vào nghĩa địa đã cười chế nhạo với những linh hồn mà xương cốt còn vùi chôn nơi đây. Có lẽ ta phải hiểu đây chỉ là phản ứng chống lại sự sợ hãi khi đứng ở một nơi mà tác giả cho rằng chỉ toàn “yêu ma và xương cốt”. Bước vào nơi đây, nhà thơ nhớ ngay những bài thơ trăng của Hàn Mạc Tử, và những bài thơ ấy làm cho tác giả có cảm giác bầu trời như ban đêm, có trăng và mưa lạnh trên lớp lớp mộ bia. Cụm từ “một bát trăng sầu” làm cho ai đọc thơ cũng lạnh gáy, lại thêm “Ướt như chuột lột”, “lớp lớp mộ bia” làm cho khung cảnh vô cùng ảm đạm.
Khổ thơ đầu tiên tác giả đã vẽ một bức tranh sầu, sầu như đời Hàn Mạc Tử, sầu như bệnh phung Hàn Mạc Tử, sầu như tình Hàn Mạc Tử và sầu như cái chết Hàn Mạc Tử. Khổ thơ diễn tả hoàn toàn thật những xúc động khi nhà thơ bước vào một khung cảnh cô liêu, tưởng nhớ lại người xưa, một nhân tài nhưng gánh chịu đau thương vì thất tình, cô đơn và đau đớn thể xác.
Khổ thơ thứ hai:
Ta nhảy nhót với bóng ta vã xuốngMột đời vui đem gói lại cho ngườiMột đời buồn gửi lại ở bên taTrong khuya khoắt nụ tầm đông chợt nở.
Phương Tấn vui gì mà nhảy nhót? Nhảy nhót vì đã đứng bên mộ Hàn Mạc Tử, nhảy nhót vì tưởng tượng mình đã diện kiến người xưa, nhảy nhót vì ước mơ bao ngày nay đã đạt. Đây là cảm xúc thăng hoa mà bất kỳ ai yêu thơ Hàn Mạc Tử đều như vậy khi đến với Hàn, đứng bên mộ Hàn. Tất nhiên Phương Tấn nhảy nhót trong lòng mình, nhà thơ “vã xuông” vì hân hoan. Giờ phút nầy tác giả đã quên đây là nghĩa địa, đã quên “yêu ma xương cốt”, đã quên “bát trăng sầu”, chỉ còn biết Hàn Mạc Tử, Hàn Mạc Tử mà thôi, đến nỗi ông gói cả đời vui tặng Hàn và gói cả đời buồn giữ lại cho ông. Điều đó chứng tỏ nhà thơ yêu Hàn Mạc Tử đến độ nào, say Hàn Mạc Tử đến độ nào, sẳn sàng dâng tặng cho Hàn tất cả, với vui mừng đến độ nhà thơ tưởng tượng giữa khuya mùa đông, nụ hoa nở ra trong lòng ông lúc bấy giờ.
Vì sao không nở nụ tầm xuân mà lại nở “nụ tầm đông”? Bởi vì cuộc đời Hàn Mạc Tử đâu có mùa xuân bao giờ. Tất cả thơ của Hàn là thơ đau, đến nỗi bài thơ “Mùa Xuân Chín” của Hàn cũng đau vì “Chị ấy năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. Giờ đây Phương Tấn trong trạng thái khoái Lạc vì ông nghĩ đã hội ngộ cùng linh hồn Hàn Mạc Tử nơi đây, nhưng linh hồn Hàn xem như là một khối sầu trong vắt, cho nên Phương Tấn khoái lạc vì được chung niềm đau với Hàn. Sự khoái lạc đó không khác chi “nụ tầm đông” nở ra thơm ngát trong cơn mưa gió. Đó chính là cái “thú đau thương” cái thú lạ kỳ mà không ai không mắc phải khi ta rơi lệ vì một màn kịch đóng hay với đầy nghịch cảnh.
Khổ thơ thứ ba:
Vì sao không nở nụ tầm xuân mà lại nở “nụ tầm đông”? Bởi vì cuộc đời Hàn Mạc Tử đâu có mùa xuân bao giờ. Tất cả thơ của Hàn là thơ đau, đến nỗi bài thơ “Mùa Xuân Chín” của Hàn cũng đau vì “Chị ấy năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. Giờ đây Phương Tấn trong trạng thái khoái Lạc vì ông nghĩ đã hội ngộ cùng linh hồn Hàn Mạc Tử nơi đây, nhưng linh hồn Hàn xem như là một khối sầu trong vắt, cho nên Phương Tấn khoái lạc vì được chung niềm đau với Hàn. Sự khoái lạc đó không khác chi “nụ tầm đông” nở ra thơm ngát trong cơn mưa gió. Đó chính là cái “thú đau thương” cái thú lạ kỳ mà không ai không mắc phải khi ta rơi lệ vì một màn kịch đóng hay với đầy nghịch cảnh.
Khổ thơ thứ ba:
Ta sẽ sớt hồn ta cho cây cỏCây sẽ xanh và cỏ hết bạc lòngTa sẽ thả hồn ta cho trời đâtTrời ra hoa và đât hết vô tâm.
Bây giờ nhà thơ vui hẳn, vui vì ông đã san sẻ được nỗi sầu, niềm đau của Hàn Mạc Tử qua ông. Nhà thơ vui vì nghĩ rằng ông đã làm được “Một đời vui đem gói lại cho người” và tại đây linh hồn Hàn Mạc Tử đã nhận quà lớn của ông. Nhà thơ vui vì ông nghĩ răng ông đã tự nguyện nhận của Hàn “Một đời buồn riêng gởi lại cho ta” và Hàn đồng ý trao cho ông nỗi sầu đau của Hàn. Từ niềm vui trong lòng đó, tình yêu trong tâm hồn Phương Tấn tràn ra vạn vật cho đến cây cỏ.
Vì Hàn Mạc Tử, Phương Tấn đã vị tha “Ta sẽ sớt hồn ta cho cây cỏ”. đã lạc quan “Cây sẽ xanh và cỏ hết bạc lòng”, đã có lòng bao dung rộng lớn “Ta sẽ thả hồn ta cho trời đất”, và đã biến đổi cả linh hồn trời đất trở nên tươi đệp “Trời ra hoa và đất hết vô tâm”. Bây giờ không chỉ Phương Tấn nhảy nhót mà cả không gian nhảy nhót, nghĩa địa biến mất trong mắt ông, còn chăng là mộ Hàn Mạc Tử trở nên một đền đài tuyệt mỹ.
Khổ thơ thứ tư:
Ta vui quá ôi chao ta vui quáDịch Thủy buồn đâu vì lỗi Kinh KhaTrong tiếng kêu có chút gì là lạSao dưng không thinh lặng đến vô thường.
Niềm vui tràn ngập trong hồn thi nhân. Bỗng dưng nhà thơ lại nhớ đến chuyên Kinh Kha và sông Dịch Thủy bên Tàu từ một thuở xa xưa. Có nghịch lý chăng? Nếu ta hiểu nhà thơ, sẽ không cho là nghịch lý. Hãy nghe mấy câu thơ trong “Bài Ca Sông Dịch” của Vũ Hoàng Chương:
“Biên thuỳ trống giụcNẻo Tần sương saGió thê lương quằn quại khói chiêu hàBuồn xưa giờ chưa tanPhong tiêu tiêu hề Dịch thuỷ hànBạch vân! Bạch vân! kìa ngang rừng phất phớiÔi màu tang khăn áo lũ người Yên”
Khung cảnh Kinh Kha qua sông Dịch Thủy để đi hành thích Tần Thủy Hoàng trong tiếng tiêu của Cao Tiệm Ly buồn quá buồn. Lúc đó tất cả người Yên đều mặc đồ tang để tiển đưa Kinh Kha lên đường. Vậy thì sông Dịch Thủy bấy giờ khác chi là nghĩa địa ngày nay mà thi nhân đang đứng. Lúc đó, người Yên tiễn đưa trong cảnh buồn nhưng lòng vui. Vui vì họ hy vọng Tần Thủy Hoàng sẽ chết, đất nước sẽ bình yên, con người sẽ hanh phúc. Vậy thì cảnh buồn đâu phải tại Kinh Kha, bởi Kinh Kha đang đem niềm vui và hy vọng cho mọi người. Bây giờ Phương Tấn cũng vậy, đời Hàn thì buồn, nghĩa địa thì buồn nhưng lòng Phương Tấn đang vui bởi ông đã đến nơi đất hành hương, đã đứng nơi mộ của Hàn Mạc Tử, đã thỏa lòng mơ ước được đến một lần nơi thi hào nằm xuống. Vậy nên, lòng nhà thơ cũng như lòng dân nước Yên thuở trước, vui trong khung cảnh rất buồn, rơi lệ tiển đưa trong niềm hy vọng lớn lao.
Khổ thơ cuối cùng:
Nơi quạnh vắng cõi lòng ta thăm thẳmẤy bao dung lồng lộng gửi cho ngườiTrong chiu chắt tình ta phơi phới lắmNgó xuống đời bạc phếch tuổi hai mươi
Bài thơ mở đầu với “tình ta như chuột lột”. Bài thơ kết thúc với “tình ta phơi phới lắm”. Ta thấy tâm trạng nhà thơ Phương Tấn thay đổi rất mau, ông rất buồn, gần như sợ hải khi bước vào nghĩa địa, nhưng lòng ông chuyển biến ngay khi đến với mộ Hàn. Cuối cùng, dầu “Ngó xuống đời bạc phếch tuổi hai mươi” nghĩa là con mắt nhìn đời vẫn lắm bi quan nhưng tâm hồn ông đã rộng mở “bao dung lồng lộng”. Đó là nhờ đâu? Nhờ Phương Tấn đã thấy mộ Hàn Mạc Tử. Mới thấy mộ thi nhân mà nhứ thế, nếu gặp được con người thật Hàn Mạc Tử thì sẽ như thế nào. Điều đó cho ta hiểu được những kỳ ngộ trong sử sách như Bá Nha - Tử Kỳ, những duyên lành gặp gỡ của những tâm hồn, của những trí tuệ lớn trong đời nầy sẽ làm nên lịch sử.
Cuối cùng, đây là bài thơ hay trên những bài thơ hay. Phương Tấn đưa ta đến thăm mộ Hàn Mạc Tử nhưng chưa một làn nhắc đến tên Hàn Mạc Tử Trong thơ. Vậy mà ta vẫn thấy Hàn Mạc Tử thắm thiết trong lòng ta trên từng dòng thơ thiết tha sớt hồn cho cây cỏ, thả hồn cho trời đất và “Trong chiu chắt tình ta phơi phới” của nhà thơ.
Châu Thạch
No comments:
Post a Comment