Tác giả Nguyễn Thị Thu Sương |
NHỚ VỀ KỶ NIỆM HỌC SINH
TRƯỜNG TRUNG HỌC NGUYỄN HOÀNG
Năm 2017, gia đình tôi tổ chức một
chuyến du lịch về Đà Nẵng. Chúng tôi nghỉ dưỡng tại Vinpearl Resort &Villas
Đà Nẵng. Sáng hôm sau dậy sớm, tôi cùng ba mạ và em gái ra bờ biển. Resort này
nằm bên cạnh bờ biển Mỹ Thị, kéo dài đến gần núi Ngũ Hành Sơn.
Đứng trên bờ biển, nhìn về hướng
Sơn Trà, ngọn núi vẫn nằm hiên ngang hướng ra biển, mây vẫn bay lững lờ qua đỉnh
núi. Sóng vẫn vỗ tung từng đợt trắng xóa vào bờ, mặt trời từ từ lên cao, mây ửng
hồng cam trên bầu trời. Ánh nắng dần tỏa sáng trên khắp bãi biển, những tia
sáng chiếu lung linh trên mặt biển như những viên kim cương, mà có thời bạn tôi
gọi là “chùm hoa nắng”. Thiên nhiên hình như vĩnh cữu, không hề thay đổi. Cảnh
vật có nhiều khác lạ: những căn nhà gỗ ngày xưa của trại lính Mỹ để lại nay
không còn, thay bằng những resort và villa sang trọng của các tổ chức du lịch
trong nước và nước ngoài đầu tư. Nơi đây không còn là quang cảnh công cộng, ai
cũng có thể đến thưởng ngoạn được như ngày xưa. Muốn vào đây, chúng ta phải bỏ
ra rất nhiều tiền mới tìm lại cảm giác thưởng ngoạn như trước đây. Con người và
thời thế đã làm thay đổi tất cả cảnh quan nơi đây. Tôi bùi ngùi thương tiếc và
nhớ về dĩ vãng của bốn mươi bốn năm về trước.
Sau mùa hè đỏ lửa 1972, dân Quảng
Trị chạy loạn vào các tỉnh Miền Trung, lưu lạc khắp Miền Nam Việt Nam, và nhiều
nhất là ở thành phố Đà Nẳng. Hiệp định Paris 1973 được ký, quân đội Mỹ rút quân
về nước, các căn cứ Mỹ bỏ lại ở Non Nước và Hòa Cầm trở thành nơi tạm cư của
dân chạy loạn Quảng Trị.
Sau một thời gian ổn định, Trường
Trung học Nguyễn Hoàng Quảng Trị đã tổ chức học lại. Trường Trung học Nguyễn
Hoàng đóng tại trại 5 Non Nước. Trường tạm thời mở tại một hội trường lớn của Mỹ
để lại. Lớp học được ngăn vách bằng cót ép, để trống phần trên và phần dưới, ngồi
bên lớp này có thể nghe thầy bên lớp kia giảng bài. Những ngày đầu chưa có bàn
ghế, học sinh mỗi người còn phải mang theo một ghế nhỏ để ngồi. Sau một thời
gian ngắn, trường đã trang bị được bàn ghế, chúng tôi được một lớp học tương đối
ra lớp học.
Những ngày nhập học chúng tôi thật
vui mừng, gặp lại được bạn bè sau một thời gian xa cách, hỏi han nhau mới biết
bạn nào còn, bạn nào mất, bạn nào đã bỏ mình lại Đại lộ Kinh hoàng. Lớp 6, 7/8
của tôi có nhiều bạn đi vào Miền Nam như Đinh Thị Hiệp về Mỹ Tho, Công Huyền
Tôn Nữ Anh Đào, Vũ Phương Mai, Lý Thị Nhơn
vào Sài Gòn. Trần Thị Lai về Bình Định, …
Vào lớp mới, tôi làm quen thêm nhiều
bạn mới: Lê Thị Hoa, Nguyễn Thị Phục, Trần Thị Mai Anh, Tôn Nữ Thanh Hương, Lê
thị Ngọc Ánh, Trần Thị Vượng, Nguyễn Thị Thanh Hà, Trần Thị Bích Huệ, Nguyễn Thị
Ty, Phạm Thị Lê, Lê Thị Hiền, Cao Thị Kim Thu, Phan Ái Hồng, Trần Thị Quyên, Trần
Thị Việt Anh,… Còn các bạn cũ là Đặng Thị Kim Anh, Lê Thị Bê, Lê Thị Quảng,…
Tôi được vào lớp 8/1, học Văn với thầy
Trần Văn Lữ (bút hiệu Trần Văn Lãng Tử (tức Thạch). Thầy có mái tóc muối tiêu rất
đặc biệt, vì thế Thầy Phan Phụng Thạch mới có mấy câu thơ:
“Thằng bạn chưa già tóc đã bạc,
Bụng đầy Kinh Lễ với Kinh Thi.
Chuyện đời hư ảo xin mày gác,
Không lẽ mày là Ngủ Tử Tư?”
Thầy Lữ dạy Văn cho chúng tôi rất
hay và tận tâm, thầy dạy kỹ các điển tích trong các bài thơ. Thầy khuyến khích
chúng tôi viết nhật ký, xem như đó là tập viết văn xuôi. Thầy hay gợi ý những đế
tài rất hay như Thiên nhiên, Xuân, Hạ, Thu, Đông, … để cho chúng tôi viết cảm
nhận về các hiện tượng đất trời. Tôi, Mai Anh, Ánh Hồng, Hoa, Quảng và Phục đến
nhà thầy học thêm Anh Ngữ. Trại tạm cư chật chội, thầy trò học quanh cái phản gỗ
ở nhà thầy. Thầy dạy các từ ngữ, với đầy đủ gốc rễ của từ ngữ, các ví dụ minh họa.
Thầy dạy thêm cho chúng tôi vì thầy yêu quý các học trò như con cái của mình.
Tôi cũng bắt đầu yêu quý và học
hành chăm chỉ các môn Văn và Anh ngữ từ ấy. Chiều nào, Hoa và Ái Hồng cũng đến
nhà rủ tôi đi học, đến ngã ba Hòa Long và
Trại 1 có Mai Anh, Quảng, Thanh Hương và Phục nhập bọn đi cùng. Chúng
tôi đi lên đường phi đạo, áo dài trắng tung bay, tay giữ cặp và tà áo, tay níu
giữ cái nón, biết đường trên cao lộng gió, nhưng đứa nào cũng thích như thế. Đường
rộng thênh thang, vắng bóng người, tha hồ nói chuyện và đùa giỡn với nhau.
Trong giờ dạy Văn, thầy ra bài viết
về Thiên Nhiên, đến khi phát bài, tôi hạnh phúc được thầy đọc bài của mình trước
lớp. Tôi trích lại bài văn hôm đó như sau:
“THIÊN NHIÊN
Theo em, thiên nhiên rất đẹp, khi người
ta ca ngợi cái gì đẹp, người ta thường nói: Đẹp như Sơn như Thủy.
Thiên nhiên đẹp, cái đẹp của nó trường
tồn, không có cái gì thay thế được và rất vĩnh cữu.
Khi nhìn cảnh mưa phùn gió bấc, cảnh
tuyết rơi, cảnh bình minh trên biển cả, cảnh hoàng hôn trên sông ,… người ta thấy
đẹp với ý nghĩa của nó. Riêng em, em chỉ thích cảnh mây bay, những đám mây bay
lơ lững trên nền trời xanh lơ, nó thường tạo ra những hình ảnh rất đáng yêu: một
ông già, một thửa ruộng, hình một cậu bé đang chạy,… Những hình ảnh ấy làm em
say mê ngắm không chán mắt. Các nhỏ bạn thường đặt cho em một cái tên vui vui
làm sao ấy: cô bé mộng mơ!
Qua sách báo cũng như các văn gia
và thi gia, em thấy họ thường ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên: nào là núi Phú Sĩ của
xứ bồng đảo, các vịnh đẹp ở Na Uy, đó là ở ngoại quốc. Trong nước nhà có cảnh đẹp
êm đềm thơ mộng của xứ Huế, nó tuy mộc mạc trầm lặng đầy vẻ thê lương như một
người nhìn quê hương mình bị bom đạn giày xéo, ở đó rất hợp với những người buồn
và bi quan. Đà Lạt xứ sương mù có cành thông đùa trước cơn gió nhẹ, có hoa anh
đào màu trong trắng tinh khiết, có thác Cam Ly nước chảy liên tiếp ngày đêm, có hồ Than Thở với dòng nước xanh
phẳng lặng, cảnh đó dành riêng cho những người diễm phúc có tâm hồn vui vẻ yêu
đời. Cũng có khi buồn người ta thường trở về với biển, bây giờ họ quên tất cả
những ê chề, chán nản mà đời đã “ban thưởng”
cho họ. Ở đây họ chỉ còn nghe dư âm của sóng, những làn gió ngập mùi biển
cả, bãi cát trắng phẳng lì. Họ cảm thấy mình hoàn toàn là của đại dương, của biển
cả.
Thiên nhiên đẹp với ý nghĩa của nó và hoàn cảnh
riêng của mỗi người.”
Mặc dù đã bốn mươi bảy năm trôi
qua, tôi vẫn giữ gìn nó như là một kỷ niệm đẹp của thời học sinh, bắt đầu tập tễnh
viết những bài văn xuôi theo ý của thầy giáo dạy Văn yêu quý: thầy Trần Văn Lữ.
Trong nhóm bạn, đứa nào cũng có
quyển nhật ký, ghi nhận hoạt động trong ngày cũng như viết về một đề tài nào mà
mình yêu thích. Chúng tôi thường viết về biển, nắng, gió,… Những cô bé mơ mộng
và hồn nhiên.
Trong năm lớp 8, nhà trường có tổ chức
đi chơi ở bãi Rạn Nam Ô, một thắng cảnh đẹp của Đà Nẵng. Bãi rạn Nam Ô là một
bãi tắm Hoàng sơ nằm cách thành phố Đà Nẵng 17km về phía Tây Bắc. Bãi Rạn này nổi
bật các lớp đá ngầm dày đặc nằm ngổn ngang ngâm mình dưới biển. Trên bờ các tảng
đá thật to, nằm ngổn ngang hay chồng chất lên nhau, có các cây mọc chen lẫn
trong đá, trông thật hoang sơ và rất đẹp. Tôi đã được Quảng chụp một tấm hình rất
đẹp ở nơi đây.
Cuối năm đó, lớp tôi có nhiều bạn đi
di cư vào Miền Nam, Phục vào Ninh Thuận theo đoàn di cư của Cha Ái, Vượng đi di
cư vào Cam Ranh, gia đình tôi đi di cư theo Chương trình Khẩn hoang lập ấp Bình
Tuy. Chúng tôi viết lưu bút và bịn rịn chia tay nhau.
Chiều đó, chúng tôi rủ nhau xuống
biển Hòa Long, đi dạo biển với nhau lần cuối. Hoa, Ái Hồng, Quảng và Phục nhảy
xuống tắm biển, đùa giởn với những con sóng, chạy nhảy trên bờ. Tôi không tắm
biển, ngồi nhìn các bạn và ngắm biển. Biển vẫn hiền hòa bình yên, từng đợt sóng
nhẹ vổ vào bờ trắng xóa như an ủi chúng tôi. Biển xanh trải rộng đến chân trời,
xanh ngắt một màu, mây trắng bay lờ lững trên cao, gió từ đại dương thổi mát rượi
vào bờ, thổi vào rừng dương đằng sau, tạo thành âm thanh vun vút êm tai. Tôi chạy
đến cùng các bạn chơi trò xây lâu đài cát. Càng về chiều, sóng càng mạnh hơn,
các lâu dài cát của chúng tôi bị các con sóng phá nát. Các đám mây chuyển sang
màu hồng cam, quả cầu đỏ đang dần dần chìm xuống biển. Bầu trời chuyển dần sang
màu tím nhạt, các áng mây màu cam đang chuyển dần sang màu tím, hoàng hôn từ từ
buông xuống. Chúng tôi buồn bã chia tay nhau trở về.
Hôm sau, chúng tôi đến nhà Phục lần
cuối, ngồi nghe anh Phục đàn và Quảng hát. Quảng có giọng hát trầm ấm rất hay.
Quảng hay hát các bài hát của Trịnh Công Sơn và nhạc ngoại qua lời dịch của Phạm
Duy. Tôi nhớ mãi giọng hát của Quảng ngày ấy. Ngày ấy! Đâu rồi! Các bạn của tôi
ơi!
Tôi được ba mạ cho ở lại học tiếp lớp
9 tại trường Trung học Nguyễn Hoàng vì trường lớp ở khu định cư chưa có đầy đủ.
Tôi lên trại 5 Non Nước ở với ông ngoại đi học.
Lên lớp 9, chúng tôi học Văn với thầy
Nguyễn Đức Liệu, thầy giáo trẻ mới ra trường. Năm ấy niên khóa 1973-1974 có nhiều
thầy cô trẻ ra trường. Thầy Lê Thanh Trí dạy Toán, thầy Tôn Thất Cẩm Đăng dạy Sử
Địa.
Thầy Đức Liệu dạy Văn
cho chúng tôi với phong cách mới. Thầy giảng bài rất hay, mắt thầy mơ màng nhìn
xa xuôi, đặc biệt cuối giờ dạy hay chiêu đãi học trò một bài hát hay. Thỉnh thoảng
thầy ngâm thơ cho học trò nghe. Bài thơ tôi nhớ nhất là bài “Màu tím hoa sim” của
nhà thơ Hữu Loan, với giọng buồn thầy ngâm bài này thật hay, chứa đầy tâm sự. Học
trò chúng tôi hay đóan già đoán non về đôi mắt buồn xa xuôi của thầy. Thầy yêu
cầu chúng tôi phải luyện câu chữ, để ý dấu chấm, dấu phẩy. Thầy nói thật thất vọng
khi các anh chị viết văn phạm Anh ngữ đúng mà viết văn phạm Tiếng Việt sai. Thầy
khuyến khích chúng tôi đọc thêm sách về Đạo giáo, Phật giáo. Thầy còn dự đoán
tương lai qua bài văn của học trò, kỳ vọng các học trò thành công trong cuộc đời.
Đó là những thành tâm, hướng dẫn học trò trong tương lai.
Dưới sự hướng dẫn của thầy Liệu,
sự nổ lực của các bạn trong lớp và bàn tay tài hoa của bạn Thanh Hà, lớp 9/1 đã
ra tờ báo tường bằng vải tên “Dấu Ái”. Tờ báo đã đoạt giải nhất về Bích báo của
trường niên khoá 1973-1974.
Năm lớp 9, nhà trường lại cho học
trò đi tham quan thắng cảnh Nam Ô nữa, mặc dù nằm cạnh Ngũ Hành Sơn, thắng cảnh
nổi tiếng nhất của Đà Nẵng, nhưng biết học trò ai cũng từng đi chơi nhiều nơi
này, nên không còn nằm trong danh sách tham quan của trường nữa.
Thầy Lê Thanh Trí dạy Toán, thầy
có thành tích đáng nể, đạt Á khoa khi tốt nghiệp. Thầy dạy toán hay và dễ hiểu.
Thầy hay đỏ mặt, đó là yếu điểm nên hay bị học trò kiếm cớ để chọc nghẹo thầy,
nhưng cũng hãy coi chừng khi lên trả bài Toán của thầy! Nhờ học Toán thầy, tôi
dần thích môn Toán và sau này tự tin chuyển qua ban B.
Thầy Tôn Thất Cẩm Đăng dạy môn Sử Địa,
với dáng vẻ thanh lịch nho nhã của người Tôn thất xứ Huế, thầy đã làm xao xuyến
nhiều trái tim của học trò, tôi đã có một bài viết riêng về thầy, nên trong bài
này tôi không viết lại những điều đó.
Thầy Nguyễn Huy Vỹ dạy Anh Văn cho bốn lớp 9, trong đó ba lớp 9/1, 9/2, 9/3 (nữ) và lớp 9/4 (nam). Thầy dạy Anh ngữ rất hay và tận tâm với học trò. Thầy khuyến khích chúng tôi học hành và ganh đua với nhau. Khi vào lớp con gái, thầy lúc nào cũng khen lớp con trai học rất giỏi và cứ nói: “Sao con gái lại thua con trai hè!”. Vào lớp con trai, thầy cũng dùng chiêu thức đó, các lớp cạnh tranh nhau học hành. Cuối học kỳ 1 thầy nói: “Kỳ này thầy sẽ ra đề thi chung bốn lớp, ai đạt điểm cao nhất, thầy sẽ có phần thưởng!” Chúng tôi ganh đua nhau học. Kết quả học kỳ 1, điểm Anh ngữ của tôi là 19 ¼.
Tôi được một quyển tự điển Anh ngữ,
đó là phần thưởng của thầy Vỹ. Nhưng đây mới là duyên cớ cho câu chuyện bắt đầu.
Tôi có em trai học dưới tôi hai lớp cũng tại trường trung học Nguyễn Hoàng. Vui
mừng vì chị đạt giải thưởng của thầy, em tôi đem ra khoe với bạn ngồi cùng bàn.
Cậu bạn đó về kể lại cho anh trai mình. Hôm sau, bạn của em tôi nói: “Anh trai
mình thua chị bạn ¼ đó, anh mình 19 điểm.” Nhưng anh của bạn ấy không đành
lòng, đưa ra câu đố: “To be or not to be” là gì?, đề nghị chuyển về cho tôi trả
lời.
Thực tình, tôi không biết câu này,
tôi tra tự điển mà không thấy. Tôi đành đến hỏi thầy Lữ, thầy giải đáp cho tôi.
Đó là phrase bắt đầu của một lời độc thoại (soliloquy) của nhân vật Hamlet, hoàng
tử xứ Đan Mạch (Denmark) trong hồi 3, cảnh 1 vở kịch Hamlet của đại văn hào và
nhà viết kịch William Shakespeare nước Anh, thời Phục hưng:
“ To be , or not to be – that is
the question:
“ Whether ‘ tis nobler in the
mind to suffer
……………….
“To be or not to be” có nghĩa là: “sống hay chết, tồn tại hay không tồn
tại: đó là một vấn đề nan giải” và nó trở thành câu châm ngôn bất hủ (famous
quotation) của William Shakespear.
Khi có câu trả lời, tôi viết gửi lại
cho người bạn ấy và không quên ghi chú: “Đồ con nít!”
Tôi đem câu chuyện này nói với nhóm
bạn của tôi. Chúng tôi chỉ biết tên bạn ấy, nhưng không biết mặt. Hai lớp học
cách buổi nên hoàn toàn không biết mặt nhau. Chúng tôi quyết định phải tìm cho
biết mặt người thách đố ấy.
Chuẩn bị cho văn nghệ Tết của trường,
liên lớp 9 họp lại ban văn nghệ. Chúng tôi vào họp nhóm văn nghệ, tôi nói với
nhóm bạn: “Phải tìm xem mặt chàng kia, xem mặt mũi ra sao, mà phách lối thế!”
Trong lúc đó, thật bất ngờ “hắn ta” lại ngồi trước mặt chúng tôi, ôm đàn lặng lẽ
cười!
Sau này, khi xong chương trình văn
nghệ, tôi mới biết mặt chàng ta.
Ngày liên hoan Tết cuối năm của trường,
tôi nhận một thiếp chúc tết xinh xinh, ghi trong đó lời chúc tết và kèm theo
câu: “Giọt sương xuân thấm lạnh lòng núi non”. Cả nhóm bạn tôi làm quen với bạn
ấy và Mai Anh rất nghịch ngợm gặp người ấy đều đọc to câu đó.
Một hôm, Quảng phát hiện ngay chỗ ngồi
của tôi, có một lỗ tròn nhỏ, đặt mắt vào có thể nhìn sang bên kia. Quảng đi điều
tra mới biết: phòng học của lớp tôi lại sát phòng nhà bạn ấy. (Ba bạn ấy là
nhân viên của trường trung học Nguyễn Hoàng nên nhà bạn ấy ở trong trường!)
Buổi học Anh văn, học mệnh đề IF (
Conditional sentences), các bạn có dịp chọc bạn ấy. Ở bên lớp, Quảng và Mai Anh
đọc to: “If you are Mountain, I will be Dew.” Không biết ngồi bên nhà, bạn ấy
có nghe rõ không? Cái nhóm bạn nghịch như quỷ này luôn gây áp đảo bạn ấy. Bạn ấy
chỉ cười mà không nói gì.
Cả nhóm tổ chức buổi họp mặt tại
bãi biển Sơn Trà. Chúng tôi đi xe lam từ Non Nước qua Sơn Trà. Cả nhóm ngồi
chơi đùa đến gần chiều giải tán, lúc về chúng tôi quyết định không đi xe mà đi
bộ dọc bờ biển. Chúng tôi đi bộ từ bãi biển Sơn Trà về đến Mỹ Thị, đến bãi biển
trại Hòa Long, Hoa, Mai Anh, Ái Hồng và Quảng đi tiếp về nhà. Tôi và bạn ấy đi
bộ dọc bờ biển đến trại 5 Non Nước. Áo dài trắng bay quấn quýt theo bước chân,
tóc dài bay tung trong ánh trời chiều. Ánh nắng trên biển bắt đầu dịu lại, dể
chịu hơn hẳn. Chúng tôi vẫn lặng lẽ bước bên nhau, nói chuyện vu vơ về bài học
này nọ. Bỗng nhiên, bạn ấy dừng lại, ngập ngừng hỏi tôi:
-
S có cảm nhận một tình cảm nào đó về mình không?
Tôi thẹn thùng bối rối
trả lời:
-
Mình cũng không biết nữa!
Rồi chúng tôi tiếp tục bước, mỗi người
đeo đuổi mỗi ý nghĩ riêng. Tôi không thể trả lời câu hỏi của bạn ấy, tôi mơ hồ
cảm nhận về nó, nhưng không thể diễn tả nó như thế nào.
Ông ngoại tôi nổi tiếng là người khó
tính. Hồi ở Quảng Trị, các bạn trai của các dì đến nhà chơi, ông ngồi quan sát
và nhìn đồng hồ. Thấy không thích anh chàng nào, ông lên tiếng hết giờ đến
chơi. Không biết bạn ấy lấy cam đảm như thế nào mà dám bước vào nhà tôi. Ông
ngoại tôi nằm trên gường, kế bàn học của tôi lắng nghe hai đứa nói chuyện. Lúc
đầu tôi sợ thật tình, nhưng khi nói chuyện về học hành, chuyện sách vở, tôi
quên mất cảm giác sợ hãi. Hai đứa trao đổi nhiều đề tài từ học hành, văn học, đến
chuyện khoa học… Ông ngoại vẫn lắng nghe chúng tôi nói chuyện. Khoảng gần một
giờ sau, bạn ấy cúi chào và xin phép ra về.
Khi bạn ấy ra đi khỏi nhà, ông ngoại tôi khen: “Thằng nhỏ học hành được
đó, nói chuyện khá, nghe được.”
Từ đó, sau mỗi tối học bài xong, bạn ấy
hay qua nhà tôi nói chuyện, dưới sự cho phép của ông ngoại. Nhà tạm cư không
gian chật hẹp, chỉ có căn phòng nhỏ, nhất cử nhất động đều nằm dưới sự kiểm
soát của ông ngoại. Chúng tôi vô tư nói chuyện, tôi cũng hóm hỉnh đối đáp với
kiến thức có được, mang đến nhiều tiếng cười góp vui cho ông ngoại.
Dì Út tôi từ Đà lạt về thăm ông ngoại,
tổ chức chuyến đi chơi Ngũ Hoành Sơn. Vài người bạn của bạn ấy, ba người hàng
xóm và hai dì cháu tôi đã thành một nhóm tham quan Ngũ Hành Sơn.
Chúng tôi đi Ngũ Hành Sơn, nhưng chủ yếu
tham quan Thủy Sơn. Tham quan nhiều đền chùa và hang động. Phong cảnh Ngũ Hành
Sơn lúc nào vẫn đẹp, dù đi bao nhiêu lần, lúc nào tôi vẫn thấy khám phá ra nhiều
điều mới lạ. Chúng tôi leo lên Vọng Hải Đài. Đứng trên ngọn núi cao, ngắm nhìn
bao quát thành phố biển Đà Nẵng, ngắm bãi biển cát vàng vòng cung từ Sơn Trà đến
Non Nước. Trời xanh và biển xanh, xanh ngắt một màu, mây trắng lững lờ trôi, ngọn
núi Sơn Trà vươn dài ra biển, quang cảnh Vịnh Đà Nẵng thật đẹp như tranh. Nhìn
về hướng đông nam là đảo Cù Lao Chàm, những đàm chim hải yến bay lượn dưới bầu
trời xanh trong.
Chúng tôi đến thắp nhang ở chùa Linh Ứng
và chùa Tam Thai. Chúng tôi đến động Huyền Không, đây là động lớn nhất của Ngũ
Hành Sơn. Động nằm lộ thiên và có cấu trúc độc đáo ấn tượng với máy vòm bình
tròn thông qua bên ngoài nên luôn tràn ngập ánh sáng. Bạn ấy quỳ cầu nguyện trước
tượng Phật Quan Âm Bồ tát rất lâu. Tôi hỏi:
-
S cầu nguyện xin gì mà lâu quá vậy?
Bạn ấy
cười bảo:
- Bí mật.
Theo
truyền thuyết, chúng tôi hứng nước trong thạch nhủ uống, với hy vọng mang nhiều
may mắn trong cuộc đời.
Dù đến Ngũ Hành Sơn nhiều lần, nhưng không lần
nào tôi dám xuống tham quan Động Âm phủ, nghe nói có con đường tối om và những
hình dáng tượng đáng sợ dẫn xuống, tôi sợ
không dám bước vào. Chúng tôi đã chụp rất nhiều hình, có một vài tấm hình tôi
còn giữ đến ngày nay.
Chúng tôi ngày càng thân thiết nhau
hơn, thỉnh thoảng bạn ấy nhờ em trai mang qua một bài thơ nhỏ hay một lá thư
cho tôi. Bạn ấy viết lưu bút cho tôi, với những tình cảm thân thương của tuổi học
trò, những mơ ước tương lai của chàng trai nhiều hoài bảo. Thời gian chia ly
cũng đang đến gần. Bạn ấy và gia đình quay về lại Quảng Trị, tôi cùng ông ngoại
vào định cư Nha Trang. Trước khi chia tay, bạn ấy tặng tôi một tấm thiệp có
hình hoa Pensée (Pansy) màu tím với những tình cảm thiết tha.
Ngày chia tay đã đến. Sáng sớm hôm ấy,
nhà bạn ấy trở về Quảng Trị. Cả nhà gói ghém đồ đạc và di chuyển trên một chiếc
xe tải lớn. Trời còn tối, tôi và dì Út ra bên hiên nhà tiễn bạn ấy, bạn ấy ngồi
trên xe tải pha đèn pin đến chổ tôi đang đứng. Tôi đứng đó vẫy tay chào tạm biệt
bạn ấy và gia đình. Bạn ấy pha đèn pin và nhá đèn pin nhiều lần để chào tạm biệt
tôi và dì Út. Chiếc xe chạy xa dần và mất hút trong bóng đêm. Tôi nhận thấy một
cái gì đó vở vụn trong tôi, tôi không cầm được nước mắt. Tôi sẽ khó gặp lại bạn
ấy. Bạn về quê Quảng Trị, còn tôi vào Nha Trang, địa chỉ không rõ ràng, có thể
nói là chưa có, không có manh mối nào để có thể liên lạc cho nhau. Sống trong
thời buổi loạn lạc, đầy bất trắc và tạm bợ này, xa nhau xem như là mất nhau,
khó mà gặp lại.
“Nàng đứng ngóng, vẫy tay buồn
thê thảm
Ánh đèn pin tôi viết chữ phân ly
Lòng nghẹn ngào, mắt ứa lệ hoen mi
Tình trong trắng như pha lê tan vỡ”
(Nam Hải Trường Sơn)
Năm 1977, bạn ấy đến thăm tôi tại Ký
túc xá trường Đại học Kinh Tế TPHCM. Dáng vóc bạn ấy vẫn như ngày nào, vẫn vui
tính và dí dỏm, tôi và bạn ấy ngồi nhắc chuyện ngày xưa. Nhưng tôi biết bạn ấy
bây giờ đã khác xưa, bạn ấy đã có người yêu mới. Chúng tôi bấy giờ xem nhau như
những người bạn thân của ngày xưa còn bé. Tôi trân trọng tình cảm của bạn ấy,
giữ gìn những kỷ niệm, những ngày tháng xưa tươi đẹp và trong sáng. Thời gian
không dừng lại, như nước trôi qua cầu, đi đi mãi không bao giờ trở lại. Con người
đã thay đổi, nhưng kỷ niệm xưa vẫn còn đó, nó đánh dấu một khoảng đời mà chúng
tôi đã có nhau. Tôi mượn tạm mấy câu thơ của một nhà thơ để kết thúc.
“Duyên dang dở để ngàn thu
nhung nhớ
Mộng trinh nguyên trôi vạn kiếp
tồn lưu
Hạnh phúc tuổi thơ thiên trường địa cữu
Xin giữ gìn năm tháng đã có nhau!”
(Nam Hải Trường
Sơn)
——*———
Trích thêm trọn bài thơ
của bạn mình ngày xưa.
TRINH NGUYÊN
Ngó dòng chữ ghi đầu trang sách nhỏ
Ngậm ngùi thương gió cuốn bụi thời gian
Nét mực xanh, giấy thắm đã phai tàn
Quanh ký ức bồng bềnh năm tháng cũ
Nhớ mãi mái trường xưa, người tố nữ
Bài Anh văn cả bốn lớp thi chung
Nàng thủ khoa nên hứng thú vô cùng
Hoa vương miện phút giây thành hiện thực
Thua (một phần tư điểm) cứ ấm ức
(Ai đường đường là bực đại tu mi
Lại cam tâm lép vế “tiểu oa nhi?”)
Nên phóng bút hiên ngang đòi hỏi đố
Lời Shakespeare trong vở kịch xưa cổ
Chàng Hamlet: “To be or not to be?”
Đặt vấn đề sống chết với hoài nghi
Rồi “Tồn tại hay không? Mất hoặc có?”
Thành dấu ấn khởi đầu duyên hạnh ngộ
Tuổi học trò từ đó lắm mộng mơ
Cát hong vàng, biển động... cũng nên
thơ
Ôm đàn hát ru trăng sao huyền ảo
Thiệp chúc Tết chua thêm dòng áo não
“Giọt sương xuân thấm lạnh lòng núi
non.”
Lời tỏ bày trong mấy chữ cỏn con
Mong gói trọn phiến tình son bàng bạc
Nàng trả lễ bằng ngôn từ đài các
Bảo rằng tôi nên “gột rửa” tư duy
Như thể yêu là bệnh dịch hiểm nguy
Và con nít chớ điên rồ, xuẩn ngốc
Tôi khấn nguyện “tiểu oa nhi” nhiễm độc
Để tặng nàng phương thuốc giải tương tư
Cứu giai nhân như một đấng y sư
Nhưng lưu bút cứ ghi “mình trong sáng”
Bờ Non Nước nàng cười như tiên giáng
Động Ngũ Hành tôi dệt mộng Thiên Thai
Núi Sơn Trà hai đứa nhập Bồng Lai
Tình yêu đến tím khung trời Đà Nẵng
Nguồn thương nhớ long lanh chùm hoa nắng
Chuỗi ngày vui như ảo ảnh hoàng lương
Cuối dòng... sông chẻ nhánh rẽ đôi đường
Ngày tiễn biệt bình minh còn hắc ám
Nàng đứng ngóng, vẫy tay buồn thê thảm
Ánh đèn pin tôi viết chữ phân ly
Lòng nghẹn ngào, mắt ứa lệ hoen mi
Tình trong trắng như pha lê tan vỡ
Duyên dang dở để ngàn thu nhung nhớ
Mộng trinh nguyên trôi vạn kiếp tồn lưu
Hạnh phúc tuổi thơ thiên trường địa cữu
Xin giữ gìn năm tháng đã có nhau!
Nam Hải Trường Sơn
Mến tặng Thu Sương
Canada, giữa một mùa hạ
nhớ gió cát Đà Nẵng
Nguyễn Thị Thu Sương
12/6/2020.
No comments:
Post a Comment