NHẠC TRẺ 1960-1975 ở Miền Nam
LÊ THIÊN MINH KHOA
Phác thảo bìa cuốn sách “9 thập kỷ ca khúc tân nhạc Việt Nam”- Lê Thiên Minh Khoa.
Vào cuối thập niên 1950, nhạc kích động châu Âu và Mỹ bắt đầu thâm nhập thị trường miền Nam. Đầu những năm 1960 thì nhạc trẻ (còn gọi là nhạc xanh) trở thành một hiện tượng của âm nhạc Việt Nam, đó là dòng “ âm nhạc trẻ trung, tươi mới, tự do”, "trẻ" cả về âm nhạc, nhạc sĩ (trừ Phạm Duy), nghệ sĩ biểu diễn lẫn công chúng. Thực tế, nhạc trẻ bao gồm âm nhạc từ loại pop/rock nhẹ nhàng của Bread và The Carpenters, cho đến những bài hát yéyé của Pháp, và rock nặng (heavy rock) của Mỹ. Gọi là nhạc trẻ cũng để phân biệt với nhạc tiền
|
chiến, tình khúc, nhạc vàng...
Nhà báo Trường Kỳ
Bắt đầu là nhiều bản nhạc ngoại quốc nổi tiếng được các nhạc sĩ đặt lời Việt rất thành công và có những ca khúc để đời. Mở đầu cho trào lưu “Việt hóa” các ca khúc Âu - Mỹ thời ấy có thể nói đến nhạc sĩ Vũ Xuân Hùng, ông đã chuyển soạn lời Việt cho các ca khúc được nhiều người yêu mến như: Búp bê không tình yêu (Poupée de cire, poupée de son), Gõ cửa ba tiếng (Knock three times), Chuyện phim buồn (Sad movies), Lãng du (L’Avventura), Anh thì không (Toi jamais), v.v... Sau đó nhiều nhạc sĩ khác, nhiều ban nhạc, cũng đã soạn lời Việt cho nhiều ca khúc ngoại quốc khác: Phạm Duy, Quốc Dũng, Trường Hải, Jo Marcel, Kỳ Phát, Lữ Liên, Khúc Lan, Nam Lộc, Nguyễn Duy Biên, Tùng Giang, trong đó có cả nhà báo Trường Kỳ (cột chèo với Vũ Xuân Hùng), v.v...
NS Vũ Xuân Hùng
Nhạc sĩ Nam Lộc "Việt hóa" nhiều bản nhạc ngoại quốc thịnh hành đương thời bằng cách đặt lời tiếng Việt: Trưng Vương khung cửa mùa thu (Tell laura i love her), Mây lang thang (The cowboy's work is never done), Dĩ vãng buồn (I’ll never fall in love again), Tình ca cho em (Good bye to love), Như mùa thu lá bay (Ben), Chỉ là giấc mơ qua (Yellow Bird), Một thời để yêu (Les amoureux qui passent), Phút bên em (L’Amour avec toi), v.v...
Thành công hơn cả là Phạm Duy, với đa phần là nhạc Pháp, với giọng hát bằng song ngữ điêu luyện của ca sĩ Thanh Lan, đã gây được ảnh hưởng khá mạnh mẽ trong giới trẻ: Khi xưa ta bé (Bang bang), Tình cho không biếu không (L'amour c'es pour rien), Hỡi người tình lara (Dr. Zhivago), Chuyện tình (Love story), Người yêu nếu ra đi (If you go away), Cuộc tình tàn (Je sais), Himalaya, Ngày tân hôn (The wedding), Em đẹp nhất ðêm nay (La plus belle pour aller danser), Những nụ tình xanh (Tous les garcons et toutes les filles), Viễn du trong tưởng tượng (En partant), Trong nắng trong gió (Dans le soleil et dans le vent), Nắng đã tắt (Il est mort le soleil), Ôi giàn thiên lý đã xa (Chèvrefeuille que tu es loin), Tình yêu mùa đông (J'aime bien l'hiver), Chàng (Lui), Nàng (Elle etait belle), Chỉ cần một giọt lệ (Rien qu'une larme), Tiễn em nơi phi trường (Adieu jolie candy), Gọi tên người yêu (Aline), v.v…
NS Khánh Băng
Sau đó, không chỉ dừng lại ở việc hát nhạc ngoại quốc, nhiều nhạc sĩ tự sáng tác các bản nhạc trẻ với tiết điệu nhanh và lạ, lời ca dễ hiểu, gần gũi. Những người đầu tiên có thể kể tới là Phạm Duy, Khánh Băng, sau đó là các nhạc sĩ khác như Quốc Dũng, Lê Hựu Hà, Tùng Giang, Nguyễn Trung Cang, Ngọc Chánh, Jo Marcel, Trường Kỳ, v.v …
Từ giữa thập niên 60, nhiều ban nhạc trẻ được thành lập, như Les Fanatics của Công Thành, Spotlights của Tuấn Ngọc, Les Vampires của Đức Huy, và nhạc sĩ Lê Hựu Hà với nhiều ban nhạc trẻ nổi tiếng: Hải Âu (1965), Phượng Hoàng (cộng tác với nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang và ca sĩ Evis Phương - 1970) và sau đó là Mây Trắng. Ông còn viết nhiều ca khúc nhạc trẻ rất được ưa chuộng như: Tôi muốn, Lời người điên, Hãy nhìn xuống chân, Bài ca tuổi trẻ, Yêu người yêu đời, Hãy ngước mặt nhìn đời, Đôi khi ta muốn khóc...
Nhưng trước đó, khoảng năm 1962, Khánh Băng đã viết rất nhiều ca khúc có tiết tấu nhanh, sôi động, gần như thể loại nhạc kích động sau nầy, được coi là những bài nhạc trẻ đầu tiên ở Việt Nam: Sầu đông, Có nhớ đêm nào, Tiếng mưa rơi..., đặc biệt bài Sầu đông có thêm lời tiếng Pháp và tiếng Anh, trong đó lời tiếng Pháp do chính ông viết.
Tới năm 1971, Đại hội nhạc trẻ đầu tiên được tổ chức tại sân Hoa Lư do Trường Kỳ, Tùng Giang và Nam Lộc đứng ra chủ trì và sự hợp tác của nhạc sĩ Phạm Duy, với gần 20 ban nhạc quốc tế của Mỹ, Phillippines và Việt Nam tham gia. Sự thành công của đại hội nhạc trẻ đầu tiên ở Sài Gòn đã đẩy mạnh nhạc trẻ lên cao độ.
Tiếp theo đó nhiều đại nhạc hội khác được tiếp tục được tổ chức: năm 1971 tại trường trung học Taberd với hơn 10.000 người nghe, năm 1974 tại Thảo Cầm Viên với trên 20.000 khán giả.
Năm 1973, Phạm Duy, Ngọc Chánh và Thanh Lan đi dự Đại hội âm nhạc quốc tế tại Tokyo, tại đây bản nhạc trẻ Tuổi biết buồn của Phạm Duy được lọt vào chung kết.
Thuộc thế hệ nhạc sĩ đi trước từ rất lâu, nhưng Phạm Duy vẫn được coi là người đứng đầu và có những đóng góp lớn cho phong trào nhạc trẻ với những sáng tác nhạc trẻ Việt và đặc biệt ca khúc nhạc ngoại lời Việt của ông được cho là nhiều nhất và thành công nhất thời bấy giờ.
Có người cũng xếp "Kích động nhạc” vào dòng nhạc trẻ, nhưng thực chất 2 dòng nhạc nầy hoàn toàn khác nhau: "Kích động nhạc" là loại nhạc "giật gân", sôi động như twist hay rock and roll thường viết về đề tài người lính Việt Nam Cộng hòa, gần với nhạc tâm lý chiến hơn, chứ không “vô tư” như nhạc trẻ mà hai ca sĩ nổi tiềng trở thành cặp bài trùng của loại nhạc nầy là Hùng Cường - Mai Lệ Huyền.
(Kỳ tới: Nhạc du ca 1966-1975 ở Miền Nam).
LÊ THIÊN MINH KHOA
(Trích trong cuốn sách “9 THẬP KỶ CA KHÚC TÂN NHẠC VIỆT NAM”- nghiên cứu, nhận định- Lê Thiên Minh Khoa- trang 53-55, sắp xuất bản, 2018).
-----------------
Nguồn ảnh: Internet và các nhạc sĩ cung cấp.
No comments:
Post a Comment