Nhà thơ Chử Văn Long
HAI CÂU THƠ VẪN LÀ CỦA XUÂN DIỆU
Không thể tin bài viết của Trần Đăng Khoa “Về hai câu thơ của Xuân Diệu”(1):
Trái đất ba phần tư nước mắt
Đi như giọt lệ giữa không trung
là của Huy Cận!
Dù bài viết đã được dàn dựng, che chắn, sắp xếp
lớp lang như một vở diễn, vẫn để lại những sơ hở, mâu thuẫn rất dễ nhận ra cái
tâm không thực ở người viết: Mở đầu, Trần Đăng Khoa vừa nhận Xuân Diệu là thầy
dạy nghề của mình với lòng trân trọng và ngưỡng mộ sâu sắc, vừa đem hai câu thơ
trên ca ngợi hết lời… kéo cả Lý Bạch, Đỗ Phủ, R.Tagor, Nguyễn Du, A.Pushkin,
Walt Witman… vào so sánh, nếu mỗi thi sĩ chỉ được chọn ra hai câu thơ, có lẽ
tất cả các thiên tài nhân loại kia đều phải ngả mũ trước Xuân Diệu! Ngoắt một
cái Khoa quay lại đưa ra những lời tóm tắt hết sức bỗ bã: “Đời thơ Xuân
Diệu, trước cách mạng là rạo rực yêu đương và sống cuống quýt bay bổng… Sau
cách mạng ông kéo thơ về mặt đất cần lao và cố gắng đưa thật nhiều thực tế đời
sống vào thơ, đọc chỉ thấy quý tấm lòng của ông đối với công việc sản xuất, còn
bài thơ thì đã chệch ra khỏi văn chương và trượt xuống việc bốc đất bốc đá hay
kỹ thuật muối dưa chuột!”. Liệu có ai tin đây là chân dung một đời thơ Xuân
Diệu, lại do nhà thơ phó chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam Trần Đăng Khoa vẽ ra để
tưởng niệm trên tờ văn nghệ số kỷ niệm một trăm năm ngày sinh Xuân Diệu?
Vì sao có sự ngoắt ngoéo làm vậy? Người đọc mẫn
cảm sẽ thấy đây là thao tác đã được tính toán để Khoa gài cắm “cái thước lý
luận do Khoa tự chế” khi khen hai câu thơ là “rất điêu luyện đưa thực tế đời
sống vào thơ” để so sánh với thơ Xuân Diệu do Khoa tóm tắt: “sau cách mạng
ông đưa thật nhiều thực tế đời sống vào thơ… nhưng đã chệch ra khỏi văn chương,
trượt xuống việc bốc đất bốc đá hay kỹ thuật muối dưa chuột”, để nói “Xuân
Diệu không có tài đưa thực tế đời sống vào thơ”, không phải là người làm hai
câu thơ tuyệt vời ở trên mà Khoa đã “linh cảm” từ thuở viết “Chân dung đối thoại” đã thấy “nó bay ra ngoài quỹ đạo thơ Xuân
Diệu”, nó nhuốm “màu Huy Cận” có “hơi Huy Cận”! Mục đích bài viết không dừng
lại ở việc tước đi hai câu thơ của Xuân Diệu để trao cho Huy Cận, để hạ bệ Xuân
Diệu. Nhưng cũng không nhằm đề cao Huy Cận, mà nhằm để tự tôn vinh cái tài
“linh cảm, thần đồng” của Khoa, người nhìn ra được hai câu thơ tột đỉnh của
nhân loại, lại tìm ra được tác giả chính thức sau gần cả thể kỷ đã mang tên
Xuân Diệu! Đọc dòng văn dưới đây trước khi kết thúc bài viết, ta như nghe tiếng
thở phào của Khoa sau những vật lộn, chắp nối một bài viết vừa ảo vừa thực: (Đến
lúc ấy tôi mới biết cái “linh cảm” của tôi đã không phản tôi). Nhưng
sao liền ngay đó Khoa lại hạ bút: “Kể lại với bạn đọc điều này tôi nghĩ
mình cũng chẳng làm điều gì phương hại đến uy tín của Xuân Diệu”. Phải
chăng sau khi bằng mọi giá đạt được mục đích của mình trái tim nhà thơ lại đưa
Khoa về với những buồn vui phải, trái. Một cậu học trò lột mũ áo của thầy trước
bàn dân thiên hạ, ngày cả nước đang kỷ niệm cuộc đời và nhân cách văn chương
của ông, làm sao không chút ân hận. Rồi việc hai câu thơ ấy Xuân Diệu viết từ
thời thơ mới, trước cách mạng, Khoa lại cố tình đào xới thơ Xuân Diệu viết sau
cách mạng để so sánh chỉ thấy thơ ông “bốc đất, bốc đá và kỹ thuật muối dưa
chuột”. Khoa thông minh, làm sao không biết thơ trước cách mạng của
Xuân Diệu có nhiều câu mang bút pháp tư duy, những gợi cảm hình thức rất gần
với hai câu thơ đem bàn.
Khi ví (trái đất với nước mắt) thật gần gũi với
nhìn (trăng thành vú mộng). Hình ảnh “Trái đất đi như giọt lệ giữa không trung”
gợi ta nhớ ngay tới “Trăng khoan thai lên ngự đỉnh trời tròn”… cố tình tước đi
hai câu thơ Khoa cho là hay nhất ở Xuân Diệu như là phủ nhận cả đời thơ Xuân
Diệu, nên người đọc càng không tin ngay cả lời khen của Khoa về hai câu thơ
hay, nó sâu sắc và ôm chứa, nhưng dùng từ “kỳ vĩ” khen một câu thơ có khác gì
chỉ đây là đỉnh núi Hy-ma-lay-a. Thơ hay không chỉ
đo bằng chiều cao, chiều rộng còn tiếng rung của sợi tơ đồng vọng mãi ngàn năm.
Ngoài hai câu thơ ấy Xuân Diệu còn bao câu hay khác làm nên Xuân Diệu – ông Hoàng thi ca một thuở. Cả chặng sau
cách mạng vẫn có những bài, những câu thật cuốn hút, mãi mãi say đắm, trẻ trung
như “Đến tan cả đất trời/ Anh mới thôi dào dạt”. Khi đọc tới câu
“Kỹ nghệ điêu luyện đưa thực tế đời sống vào thơ” được mệnh danh là “cái thước
đo thơ tự chế của Khoa” nó đưa người đọc đến với hình dung một thứ lý luận thơ
ngồ ngộ, pha trộn bằng khái niệm của nền sản xuất công nghiệp ở những nước phát
triển, kỹ nghệ luyện thép, kỹ nghệ hóa dầu, ở trình độ cao là chế tạo máy bay,
làm tàu vũ trụ chứ làm gì có “kỹ nghệ đưa thực tế đời sống vào thơ”. Thơ là sản
phẩm tinh thần đơn chiếc, dù rèn luyện đến đâu cũng không thể tạo nên một kỹ
nghệ sản xuất thơ. Thời làm thơ thiếu nhi Trần Đăng Khoa từng có câu thơ thật
sự thần đồng: “Trăng bay như quả bóng/ Đứa nào đá lên trời”! Thơ
thiếu nhi Việt Nam chưa có câu nào đặt ngang so sánh. Lúc ấy Khoa đâu đã có khái niệm “kỹ nghệ đưa thực
tế đời sống vào thơ”!
Nước cờ chủ chốt khi Khoa kết thúc bài viết là
rất táo bạo, dẫn lời Huy Cận: “Câu thơ ấy đúng là của mình. Mình viết năm
1940 ở Huế”, hẳn Khoa yên chí không ai còn dám tranh luận với mình. Nhưng
Huy Cận đã không còn, ai tin được đây là lời Huy Cận. Về lý người ta có thể
hỏi: “Sao Trần Đăng Khoa không công bố khi Huy Cận còn sống? Và cả trường hợp
được nghe chính Huy Cận nói ra lời này thì vẫn còn thiếu lời của Xuân Diệu đã
yên nghỉ ở cõi gió mây. Nên hai câu thơ “Trái đất ba phần tư nước
mắt/ Đi như giọt lệ giữa không trung” mãi mãi chỉ là của Xuân Diệu.
Vạn Phúc, ngày 30 tháng 04 năm 2016
CHỬ VĂN LONG
Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc,
Thanh Trì, Hà Nội.
Điện thoại: 01658818263
No comments:
Post a Comment