Nhiều năm sau
khi anh tôi mất, mẹ tôi vẫn thường kể về chuyện ấy, bà kể rằng:
-Năm ấy là năm
Nhâm Ngọ, mẹ tôi cùng một người trong làng có việc phải ra Đông Hà, chiều lại, đi bộ về ngang chùa Sắc Tứ, một ngôi chùa nằm phía bắc tỉnh Quảng Trị, tọa
lạc trên một vùng cát trắng, mà sau này khi chiến tranh tràn lan, vùng này mọc
lên một căn cứ quân sự của Mỹ, bao quanh ngôi chùa chỉ trừ một lối vào vừa đủ
cho Phật tử trong vùng vãn chùa, đảnh lễ. Khi bà cùng người làng ghé chùa, sư
trụ trì cùng các sãi đang đạp lúa trước sân, mẹ tôi vái thầy rồi tỏ ý muốn xin
xăm. Một chú tiểu tóc để chỏm nhanh nhạy theo lời sai của thầy, dẫn mẹ tôi vào
chính điện. Mẹ tôi đặt bó nhang lớn mua từ Đông Hà, đặt thêm một đồng bạc làm
lễ vật rồi khấn vái, sau đó qua bên một chiếc bàn khấn lại, rút một thẻ tre gọi
là xăm, đem ra cho sư trụ trì xem, sư ngừng đạp lúa, nhìn vào xăm rất lâu rồi
nói chậm rãi:
- Mợ đang mang
thai, một nam nhưng mạng này lại vắn số!
Mẹ tôi sững sờ
đáp lại:
- Thưa thày, tôi
vừa bỏ một đứa con chưa bao lâu, sao lại như vậy được?
- Xăm nói sao
tôi nói vậy, mợ về xem lại.
Là người Quảng
Trị, nhưng trong nhà tôi gọi cậu mợ, có lẽ cách gọi này là “mốt” thời thượng
của những gia đình từng đi làm cho Tây thời đó, tôi gọi cậu mợ cho tới khi gia
đình tôi rời quê lên tỉnh vì chiến tranh.
Bố mẹ tôi mong
mỏi một đứa con trai, nhưng hai lần sinh đều là gái, cái thai thứ ba mẹ tôi vừa
bị hư cũng là gái, trong khi đó tuổi của bố tôi đã bốn mươi tám và mẹ tôi hai
mươi tám.
Chuyện của bố mẹ tôi gặp nhau là một chuyên
hiếm hoi. Nguyên bố tôi đã có một đời vợ, bốn đứa con. Thời gian này, người được
bổ ra làm việc ở Quảng Bình. Năm sau, một trận dịch hạch xảy ra, cả vùng Quảng
Bình, Quảng Trị chết rất đông, có nhà mất cả gia đình, đi đâu cũng nghe tiếng
khóc than! Mẹ đích tôi cùng các anh chị nằm trong số đó! (Trong nhà tôi gọi vợ
trước của ba tôi là mẹ đích) .
Sau khi an táng
vợ và các con, người buồn rầu trở lại Quảng Bình làm việc. Trước là một người
hoạt bát năng nổ, nhưng nay u uất buồn rầu.
Ông ngoại tôi
là bạn đồng liêu thân thiết với bố tôi.
Sau hôm giỗ mãn
tang mẹ đích tôi không lâu, ông ngoại tôi trong một bữa rượu, đã gợi ý gả con
gái cho bố tôi, dù con mình còn quá trẻ, mới mười bảy tuổi!
Mẹ tôi kể lại
khi ông ngoại gọi, mẹ tôi đang bẻ bắp sau nhà, nghe ông ngoại nói ra ý mình, mẹ
tôi cúi mặt nói lí nhí:
- Thầy muốn vậy
cũng được ạ!
Bởi bố tôi là
bạn thân thiết với ông ngoại tôi, mẹ tôi không lạ gì người đàn ông hiền lành,
thích thơ phú và vui tính này!
Trở về nhà, mẹ
tôi kể chuyện lá xăm với bố tôi, ông liền đưa mẹ tôi lên tỉnh, nhờ một người
bạn là bác sĩ, trong tỉnh ai cũng gọi ông là “Đốc tờ Hy”.
Sau khi thăm
thai, Đốc tờ Hy trở ra nơi bố tôi ngồi, vui vẻ bắt tay bố tôi, nói:
- Thai bốn
tháng rồì, mong là trời cho “xừ” một quý tử.
Bố tôi theo Tây
học, ít khi tin vào tử vi bói toán, nhưng rồi cũng hoang mang với lá xăm!
Gần cuối năm
thì anh tôi chào đời, cả nhà tôi, hai chị còn nhỏ, bố mẹ tôi và hai bên nội
ngoại… hoan hỷ vui mừng. Nhưng mẹ tôi thì lo âu từng ngày vì tin vào số mệnh, vị
sư nói “vắn số” nhưng khống biết “vắn” là tại thế được bao lâu!!!
Nỗi lo âu
thường trực trong lòng bà cho tới khi anh tôi qua đời!
Bấy giờ chúng
tôi đã lớn, dù đã thuộc nằm lòng nhưng vì thương mẹ nên cũng ngồi nghe kể,
thỉnh thoảng chen vào, hỏi mẹ một vài chuyện về anh, cũng đã nằm lòng, nhưng dù
đã nằm lòng vẫn không khỏi khóc. Chẳng hạn như sau khi anh tôi được ba tuổi, mẹ
tôi sinh thêm chị gái tôi, năm sau, giặc Tây càn, những trận càn liên miên thời
đó. Mẹ bồng chị tôi, anh tôi chạy cùng hai chị, không may đạp nhằm cái gai tre
xuyên qua bàn chân, đau lắm! Thấy anh tôi không chạy được, các chị cũng còn nhỏ
không cõng nổi, mẹ tôi muốn bỏ lại chị tôi bên đường để cõng anh tôi. Nhưng anh
tôi không chịu, khóc lóc, nhất định là: “Con đi được, mợ đừng bỏ em!” Rồi anh tôi tấp tểnh đi bằng gót chân non
nớt! Chúng tôi luôn khóc về chuyện này, khi chị tôi đã lớn khôn, chị vừa khóc
vừa gọi “Anh ơi !!!” làm chúng tôi sụt sùi!
Thời gian này
bố tôi đã bỏ việc ở Quảng Bình, thoát ly lên chiến khu Ba lòng, được một vài
năm, ông bị Tây bắt, phải nằm nhà lao mấy năm. Trở về, bố nhớ lại lời của lá
xăm, người nguyên xin ơn trên cho thêm đứa con trai nữa, trời cho thật, anh kế
tôi ra đời vào năm Nhâm Thìn, bố tôi đặt tên là Trần Như Nguyện. Vài năm
sau, mẹ sinh thêm tôi khi mẹ đã bốn mốt tuổi, bố sáu mốt! Tôi thường bị
trêu là con ông già. Vậy là gia đình tôi có sáu người con, ba trai ba gái.
Tản cư lên tỉnh, gia đình tôi nhờ ông Tỉnh
trưởng giúp cho một chỗ ở, công việc sinh nhai là nấu cơm cho thợ hồ, thợ mộc
xa nhà. Ăn ngày, ăn tuần, ăn tháng tùy…
Ông Tỉnh
trưởng thường đến nhà tôi chuyện trò cùng bố tôi, ông từng là một thầy giáo dạy
văn. Ông là tỉnh trưởng dân sự cuối cùng vì sau đó những tỉnh trưởng đều là
Quân đội.
Có một lần,
bố tôi đọc cho ông nghe câu đối mà bố tôi mới làm xong:
“Bán cháo, bán
cơm, không bán nước,
“Mua đồng, mua
trự, chẳng mua quan.
Ông Tỉnh
trưởng khen rồi xin cắt nghĩa, bố tôi nói:
-Tôi tản cư
lên tỉnh, nhờ ông Tỉnh trưởng giúp cho chỗ ở, nấu cơm bữa cơm tháng sinh nhai,
nên chỉ bán cháo bán cơm, còn nước thì lấy từ sông Thạch Hãn lên, ai khát thì
cho người ta uống chứ không bán. Nhà tôi nghèo, chỉ có tiền đồng tiền trự, chứ
làm gì có tiền quan mà mua.(Lúc này tiền tệ không còn “trự”, “quan”, nhưng ông
mượn đơn vị tiền tệ cũ để nói lên ý mình trong câu đối.
Tâm đắc với
câu đối, ông Tỉnh trưởng về, hôm sau cho chở tới 10 bao gạo, rồi giới thiệu các
công chức xa nhà đến ăn cơm, nhà tôi đông như quán cơm xã hội. Mẹ tôi đã vất vả
càng vất vả hơn!
Vất vả bận
rộn, nỗi lo về anh tôi cũng vơi đi phần
nào. Cho đến một hôm, có một thầy chấm số Tử vi từ Huế ra, chuyên chấm tử vi
cho những nhà giàu, quan chức trong tỉnh… đến ăn cơm, ông thầy đau bao tử nên
hơi tái xanh, gầy. Mẹ tôi chừa phần cơm của thầy thường bỏ thêm cho ông một miếng cháy
bởi ông rất thich cơm cháy
Năm trước, anh
tôi thi rớt tú tài phần nhất, găp lúc tòa hành chánh tính có tổ chức “Đoàn cán
bộ hành chánh lưu động”. Anh tôi được tuyển dụng.
Tôi còn bé
nhưng cũng nhớ là đêm ấy là đêm mưa rét, bố tôi ngồi chuyện trò cùng thấy tử
vi, ông ấy gọi anh tôi, bào vào trong phòng xem dưới hạ bộ có nốt ruồi đen hay
không, anh tôi theo lời rồi ra xác nhận lả có. Ông cười bảo với anh không có
gì, ông ngồi cùng bố tôi một lát rồi về nhà trọ.
Hôm sau ông
lại đến ăn cơm, ông nói nhỏ với bố tôi:
- Ba mươi mốt
tuổi nó hết số anh à!
Bố mẹ tôi
buồn lắm, nửa tin nửa không muốn tin!
Ba mẹ tôi dấu
không cho chúng tôi biết, nhưng cũng chẳng giấu được bao lâu, anh tôi và cả nhà
đều biết, ai cũng cố không tin ông Thấy tử vi!
oOo
Lá xăm và lời
thầy tử vi cũng chỉ là hé lộ mơ hồ về số phần của anh tôi, có vẻ như đã được
định mệnh sắp đặt. Tin hay không tin cũng chỉ biết đợi chờ!
Những lắng lo
xoay trở tạo cho mình có được một “cái gì đó” trước khi tuổi ba mươi mốt đến là
ý nghĩ luôn hiện hữu và chi phối những chọn lựa của anh tôi!
Anh tôi thích
thơ-văn, anh cùng hai người bạn ra một tập thơ mỏng chép tay, in roneo, lấy tựa
là “Thi phẩm: Buồn Hôm Nay”, anh cũng gởi thơ cho các báo, một vài bài thơ của
anh được đăng trên báo “Phổ Thông” và “Bách khoa”.
Anh vào lính,
thi lại tú tài rồi xin vào làm ở Đài Phát Thanh Quân đội ở Huế.
Năm sau anh
cưới vợ, ở tuổi hai mươi mốt, mặc cho gia đình phản đối!
Làm ở đài phát
thanh không bao lâu thì cuộc chính biến 1963 xảy ra cùng với chiến sự lan tràn,
anh về làm lính tiểu khu Quảng trị, ở đó cho đến biến cố tết Mậu Thân.
Những đứa con
ra đời, anh tôi lại có thêm nỗi lo kinh tế! Là lính tiểu khu, ngoài những giờ
gác đêm, anh tôi được tự do, anh làm thông dịch cho những nhà thầu nơi các căn
cứ Mỹ để kiếm thêm thu nhập, phụ vào đồng lương ít ỏi của anh binh nhì.
Ông Tỉnh trưởng
dân sự ngày nào, sau khi thôi làm tỉnh trưởng, ông ứng cử Hạ nghị viện và lúc
này dang là Bí thư hạ viện tại Sài gòn. Khi ứng cử nhiệm kỳ đầu, anh tôi đến
các quận trong tỉnh để vận động cho liên danh của ông, trong lần về lại, gặp
anh tôi, ông khuyên anh tôi vào trường Bộ binh Thủ đức, sau khi ra trường sẽ
ứng cử Hạ viện như ông trước đây. Trong thời chiến, cứng cử viên là sĩ quan
quân đội sẽ được cử tri quân nhân ủng hộ.
Năm 1970 bố tôi
mất vì bệnh phế quản. Có lẽ là di chứng của những năm nằm nhà lao.
Theo lời khuyên
của ông cựu Tỉnh trưởng, anh tôi vào trường sĩ quan Thủ Đức, khóa 3/70.
Mãn khóa, anh
nằm trong số được chọn đơn vị. Chiến sự căng thẳng khắp nơi, bốn đứa con là
động lưc cho anh tôi chọn tiểu khu Phong Dinh vì nghỉ rằng Miền tây gạo và thức
ăn rẽ! Chuyện ứng cử Hạ viện không còn trong tầm tay.
Anh vẫn viết,
cộng tác với các nhật báo. Anh viết những bản tin, phóng sự, thỉnh thoảng đăng
một vài truyện ngắn và thơ… đem lại một khoản tiền nhuận bút cho kinh tế của
anh.
Văn thơ anh lúc
này bi quan với những: “mộ phần, nghĩa trang, cái chết”, những gian truân đời
lính, bên cạnh những bài thơ mang ước vọng hòa bình…
(Tôi còn nhờ vài
câu:
“ Đường đi vào
nghĩa trang,
Buổi chiều
nghiêng nắng đổ
Em cúi mình
hỏi mộ
Mộ anh ở
nơi nào?!
……………………
Hay như:
“Nếu một mai
Quê hương tàn tiếng súng,
Anh giã từ
vũ khí trở về em
Anh quên
hết những oán hờn xưa cũ,
Gối đau
thương trong giấc ngủ say mềm…
………………………………………….)
Gia đình tôi
vẫn ở Quảng Trị cho đến tháng 4 năm 1972. Quê tôi rực lên bởi đạn pháo. Chết
chóc, ly tán… Gia đình tôi nhờ chạy trước nên không qua đoạn Quốc lộ 1, nơi được
gọi là “Đại lộ kinh hoàng”.
Anh tôi từ Cần
Thơ đăng báo tìm “mẹ và em”, anh cho tôi địa chỉ một người bạn gái ở đường Võ
Tánh, Sài Gòn. Đến đó, anh sẽ đón mẹ và tôi đưa về Cần Thơ.
Anh kế tôi lúc
này cũng đã vào trường Thủ Đức, khóa 4/71. Các chị tôi ở lại Đà Nẵng trong các
trại tạm cư, chờ khi tái chiếm được Quảng Trị sẽ hồi cư.
oOo
Gặp lại anh ở
Sài Gòn, mẹ tôi rơi nước mắt vì mừng mà cũng vì anh gầy và tái xanh, anh cười
bảo là muổi nhiều nên sốt rét. Anh muốn mẹ và tôi ở lại vài ngày ở Sài gòn để
anh đưa đi thăm bà con nhưng mẹ tôi không muốn, bà nôn nóng về với các cháu. Chị dâu tôi đang mang thai đứa thứ năm!
Ngồi trên
chiếc xe về miền Tây ở bến xe Chợ lớn, anh nói nhiều cho tôi biết về Cần Thơ,
những bến Ninh Kiều, phi trường Bình Thủy, phà Cần Thơ rộng qua sông Cửu Long,
Rạch Chanh nơi đơn vị anh đóng quân… Anh cũng nói đến Nghĩa Trang Quân Đội Biên
Hòa, anh muốn nếu chết thì chôn anh ở đó! Câu nói như bất chợt ấy làm tôi nặng
lòng!
Một cô gái
mang một chồng sách lên xe bán dạo, tôi vui trở lại. Anh chọn bốn cuốn: “Chiến Trường Tồi Tệ" của Ngô Đình Vận, “Một Chút Mặt Trời Trong Nước Lạnh” của F.
Sagan, bản dịch của Kiều Diễm Hồng, anh nói về nhà văn nữ người Pháp, nói qua về trào lưu “Hiện sinh”…mua thêm cho tôi hai số nguyệt san “Văn
Học”: Một số viết về nhà thơ Quang Dũng và số về Hoảng Cầm. Hình bìa số về
Quang Dũng có in hình nhà thơ, anh tôi nói đó là áo của sĩ quan Hoàng Phố, nói
cho tôi nghe về trường quân sự này, cũng nói thêm về Vũ Bằng và mấy cây bút
trong những số này làm tôi háo hức đến Cần Thơ, nơi căn nhà mướn của anh để
xem…
Căn nhà mướn
chật chội làm tôi thương anh hơn, những ngày phép còn lại thật quý, anh em tôi
ngồi chuyện trò về thơ, văn, nhạc… Tuy tuổi chênh nhau nhiều nhưng anh em tôi
gần gũi nhau hơn các anh chị khác. Lúc này tôi mới mười sáu còn anh ba mươi mốt! Vốn thơ tôi không quá cuốn “Việt Nam Thi Nhân” của Hoài Thanh. Nhạc thì tôi
kha khá nhờ nghe nhiều, chúng tôi cùng thích nhạc tiền chiến và Trịnh Công
Sơn. Thời gian này băng nhạc “Như Cánh Vạc Bay" và "Cỏ Xót Xa Đưa” của Trịnh Công
Sơn đang thịnh hành, trong những cuốn băng cassette tôi mang theo về Cần
Thơ được nghe liên tục. Tôi cũng mang theo cuốn “Yêu Nhau Khi Còn Thơ" và "Khi Loài Thú Xa Nhau” của Lê Uyên và Phương, còn có một cuốn nhạc chọn lọc tôi
rất quý vì tôi đã cất công vào nhà thu băng Hoa Đàm ở cửa Thượng Tứ, Huế, thu
chọn những bài mà tôi thích như “Trăng Mờ Bên Suối”, “Suối Mơ”, "Chiếc Lá Cuối Cùng”, “Đêm Đông”… Tôi chọn cho được giọng ca Thái Thanh và Sỹ Phú. Thu chọn bài đắt
gấp ba lần thu nguyên băng, nhưng tôi vẫn kiếm tiền thu cho được.
Thế mà vài
ngày sau tôi phải bán cái máy cassette ấy! Cái máy này tôi mang theo từ Quảng
Trị. Khi hết phép, anh tôi về đơn vị
nhưng không có tiền, tôi đề nghị bán chiếc máy, anh không cho, nhưng rồi cuối
cùng cũng phải chấp nhân vì ngoài tiền mang theo về đơn vị, còn tiền ăn cho cả
nhà! Tôi nghiệp anh, tự an ủi là lãnh lương sẽ mua lại cho tôi cái máy tốt hơn!
Hai anh em,
tôi xách cái máy, anh tôi vác cài thùng loa Sharp, qua các phố Cần Thơ tìm chỗ bán. Mồ hôi đẫm chiếc áo lính của anh tôi. Khi tới một tiệm sửa máy, họ đồng ý mua
lại, anh tôi rút khăn lau mặt, không biết anh lau mồ hôi hay những giọt nước
mắt, có lẽ cả hai!
Trước khi trở
lại đơn vị, anh tôi xin cho tôi đi học. Tôi vừa xong lớp chín, muốn bỏ lớp mười
để vào lớp mười một. Anh tôi ngại tôi không theo kịp, nhưng tôi hứa là sẽ cố
gắng. Tôi vào lớp Mười một trường Nông Lâm Súc ở Cần Thơ, nhờ thầy Giám học cảm
thông cho hoàn cảnh chiến tranh của Quảng Trị, không đòi hỏi hồ sơ lớp mười.
Sáng ngày anh
về đơn vị, mẹ tôi đưa cho anh ba ngàn, trong số tiền bán cái máy, nhưng anh chỉ
lấy một ngàn, nói là “con chỉ đi ba ngày rồi về”,
Những ngày ở
nhà, anh thường hỏi tôi mấy giờ rồi, tôi sợ anh về đơn vị không biết giờ nên
cởi cái đồng hồ hiệu Bulova, bảo anh mang theo, tôi ở nhà không cần, bởi anh
nghĩ chỉ ba ngày rồi xin phép về nên cũng mang vào tay.
Có lẽ mẹ tôi
đã đếm từng ngày của năm Nhâm Tý, 1972 và mừng thầm vì đã đến tháng bảy! Anh
tôi trở lại đơn vị hôm mồng một, mẹ tôi phấp phỏng âu lo, có những lúc tôi thấy
bà ngồi lầm rầm khấn ông bà. Những lúc như thế, tôi thường nói rằng mẹ đừng lo
lắng, anh đang bệnh, là Đại đội phó thí anh ấy cũng chỉ ở hậu cứ chứ chết chóc
gì!
Tôi cũng
không buồn đi chơi đâu, dù rằng Cần Thơ là nơi tôi thường nghe tiếng là Tây Đô
với nhiều cái đẹp, tôi nằm ngấu nghiến mấy cuốn sách vừa mua.
Đúng ba ngày
từ hôm anh tôi đi, sáng sớm có một bà ở cuối lộ 19 bị trúng gió độc chết, bà
cũng ba mươi mốt tuổi! Mẹ tôi bần thần như người mất hồn, đúng lên ngồi xuống,
đi ra đi vào!
Chừng mười giờ
sáng, có một anh lính đi ngang nhà, mẹ tôi bảo tôi chạy ra hỏi, tôi đi ra:
- Anh tìm nhà ai?
- Nhà Thiếu úy
Dụng ở đâu ạ?
- Tôi là em anh
Dụng!
Anh lính đứng
im không nói thêm gì, mẹ tôi lao ra hỏi dồn dập:
- Thằng Dụng sao rồi, sao rồi?!
- Thiếu úy chết
rồi ạ!
Mẹ tôi và chị
dâu thét lên rồi lăn lóc giữa đường, tôi cố trấn tỉnh hỏi anh lính là anh chết
lúc nào, hiện ở đâu?
- Ổng chết năm giờ sáng. Xe của đơn vị đang
ở đầu lộ chờ đưa thân nhân xuống nhà xác quân khu…
Mẹ, chị dâu và
tôi đến nhà xác, xe vẫn chưa đưa xác anh về. Hôm ấy mất điện, nhà xác ngập ngụa
máu từ các ngăn lạnh chứa xác chảy ra! Chừng hai mươi phút sau, anh tôi về trên
chiếc xe cứu thương, với một mãng mặt vở nát và ba vết đạn trên ngực và bụng!
Anh tôi bảo
chỉ đi ba ngày rồi xin phép về, đúng ba ngày, anh tôi trở về như thế! Hôm ấy là
ngày 03 tháng 7 năm 1972, anh tôi đúng ba mươi mốt tuổi như trong là số tử ví
mà ông thầy chấm ngày nào!
Thẻ xăm và lá
số tử vi khiến anh tôi lo lắng rồi có những chọn lựa sai lầm, đưa đến cái chết
đúng như lá số tử vi, hay dù có làm gì chăng nữa, cũng không qua được số phần
mà định mệnh đã định dặt cho cuộc đời ngắn ngủi của anh tôi?
Đó là câu hỏi
luôn dằn vặt tôi cho đến bây giờ, không chỉ riêng định mệnh của anh tôi, mà tất
cả những con người tồn tại trong cõi hiện sinh mong manh này.
Tháng III, 2015.
Trạch An -Trần Hữu Hội
1 comment:
Đọc hết bài viết. Không biết phải nói sao nữa. cảm thấy buồn và thương. Chiến tranh thật là khắc nghiệt. Phận người sao mà mong manh.
Cảm ơn tác giả đã chia sẻ một phần của chuyện đời mình. đọc mà thấy buồn thương cho một số phận. không thể cạn lời được. Kính chúc tg và quí quyến an lạc.
KÍNH
TT. Quỳnh Hoa
Post a Comment