Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Wednesday, March 21, 2012

CHÂN DUNG “NGƯỜI ĐÀN BÀ MẶC CHIẾC ÁO CHOÀNG” - Nguyễn Văn Quốc đọc thơ Trương Lan Anh

Lời bạt: Có những câu thơ gọi đò cho kí ức của một thời rất trẻ nhưng vô cùng sâu lắng, người đọc có thể tìm thấy những vần thơ ấy trong “Người đàn bà khoác chiếc áo choàng” của nữ sĩ Trương Lan Anh. Thơ chị nhẹ nhàng, nồng ấm, trong trẻo như đóa hoa lung linh trong sương sớm ngày đầu ta gặp. Bằng trái tim nhạy cảm, sâu thẳm, cây bút nữ này đã mang đến những hơi thở mới để ta biết tên những miền kí ức của cuộc đời, mang đến cho người đọc những vùng thẩm mỹ tươi mới, độc đáo của tình yêu dành cho đời và cho quê hương Quảng Trị dấu yêu qua những khoảnh khắc cuộc đời với ngôn ngữ thơ mộc mạc, lắng dịu, thuần hậu mà sâu sắc...



Có một quyền muôn thuở của nhà thơ là tìm về kí ức – một đời người, một dòng sông  - Nhà thơ Trương Lan Anh cũng đi tìm kí ức trong những dòng sông quê, những địa danh quen thuộc thân thương của đất Quảng Trị mến yêu với tâm tình thương nhớ, trao gửi và nắm giữ trong thẳm sâu tầm hồn của chị. “Người đàn bà khóac chiếc áo choàng” trở thành biểu tượng cho con người đi cùng năm tháng với ngẫm ngợi, suy tư; với hạnh phúc bé nhỏ và những đợt sóng dội lên trong lòng với bao cảm xúc, bao duyên nợ của một thời lục bát, ca dao:
                         “Nợ nhau nên lại gặp nhau
                          Cầu qua chín nhịp lòng đau người về
                          Nợ chi ta ở chốn quê
                          Người đi trốn tuyết hay về cố hương?”
                                                           (Nợ)


Có niệm khúc của chiến tranh đi qua vẫn cồn cào trong thơ của chị, trang thơ chất chứa cả một khoảng trời không chút bình yên của cõi đời nhưng nhân nghĩa rất tinh khôi, nguyên vẹn:
                        “Một dòng quê bên đục bên trong
                        Một dòng quê phân chia nhân nghĩa
                        Một nhịp cầu qua mà cắt thành hai nửa
                        Nghe đôi bờ xao xác tiếng gà trưa!…
                                              (Về quê hương Quảng Trị)
               

Thơ chị đã làm sống dậy những miền kí ức về bến sông Quảng Trị, của kỉ niệm hằn sâu trong cuộc đời qua những mùa yêu thương, những mùa lửa đạn trên quê hương anh dũng này. Trên xứ sở Miền Trung gió lào cát trắng, trên dòng sông nhiều nỗi đau lịch sử khi chiếc khăn tang không chỉ vắt qua trong kí ức mà còn làm ám ảnh lòng người hiện tại. Có thế chăng mà mảnh đất, tình người và con sông đã trở thành hình ảnh và biểu tượng trong thơ chị - Con sông với tiếng hát quê hương là câu hò thương nhớ, là chòng chành giao duyên, là kí ức của miền xa thẳm:
                   “Tháng bảy mùa hoa nở giữa lòng sông
                    Đèn hoa đăng sáng bừng lấp lánh
                    Con nước về cho đôi bờ sóng sánh
                           ...............................
                    Khẽ khàng đặt những vòng hoa tháng bảy
            Hoa lặng lẽ âm thầm trôi chảy
            Đến muôn nơi đón đồng đội trở về
                                    (Hoa nở giữa lòng sông)
               

Bao bài thơ của chị vọng về cảm xúc, kí ức của người con Thành Cổ thế nên chị đã đưa vào thơ mình thứ lửa của một thời để thao thức trái tim người đọc khi hướng về tất cả những miền thực và miền tâm linh. Thơ chị có sự giao thoa giữa chất tự sự trữ tình với những khúc tráng ca, những khúc tình ca muôn thưở - Đó là đặc điểm khó lẫn trong thơ của chị, và nhà thơ đã biến cái chân chất, mộc mạc đó thành một miền thơ dẫn dụ, lôi cuốn người đọc để được sống với những điều chị sẻ chia, giãi bày. Nhiều câu thơ của chị đã ra đời như để gọi thay những khắc nghiệt lẫn những vẻ đẹp giản dị của quê hương với nỗi đau của một thời đã xa trong tiếng gọi con khô cháy cả dòng sông và cháy khô cả đời mẹ:
                           “Hương trầm bay trong gió
                            Đâu đây chốn con nằm
                            Con có nghe tiếng mẹ?
                            Gọi con cháy khô dòng”
                                       (Cánh diều Thành Cổ)
            

Ta chợt thấu thị một điều, đối với Trương Lan Anh, làm thơ là để san sẻ, để ghi nhận chứ không phải để chứng tỏ. Chị nương trái tim mình theo nhịp thở của sông quê mà thủ thỉ, tâm tình với                 
                     “Chiếc cầu quê nối nỗi nhớ đôi bờ”:

                    “Em đã về tắm mắt cả dòng thơ
                     Để quê anh đẹp mùa vàng lấp lánh
                     Dòng sông in bầu trời xanh soi bóng
                     Thuở em về thầm lặng hát giao duyên!”
                                 (Sông hát giao duyên)
             

Là con người của hai thế hệ vừa ra khỏi cuộc chiến tranh về lại đời thường, trong thơ chị có biết bao nhiêu mảnh đất quê hương và nhiều lần chị nhắc đến con sông quê thân thuộc. Đó là cõi đi về của một tấm lòng với quê hương đất nước, với tình yêu chung thủy sắt son:
                             “Em nhé ta về tắm mát sông quê
                             Vĩnh Định, Ô Lâu, Hiếu Giang, Thạch Hãn
                             Con sông nào cũng âm vang tiếng hát
                            Sóng vỗ đôi bờ dào dạt ánh trăng reo…”
                                               (Về quê hương Quảng Trị)
         

Quan niệm thế nào thì mùa gặt thơ như thế ấy; vùng thẩm mỹ trong thơ của chị đi theo chân trời riêng của cái chân chất thân quen đến từng hơi thở của kỉ niệm. Nó không có chỗ dành cho những gì xa lạ, nó đích thị là trái tim nghĩa tình trong chị, trái tim nặng trĩu những tình yêu, những trăn trở và khát vọng. Thế nên, tần số mùa xuân qua dòng thơ của chị đã là miền kí ức và là vệt thời gian để gọi về khát vọng, yêu thương, hạnh phúc cho nên nó đủ sức làm thành biểu tượng cho tâm hồn yêu thương và nhạy cảm của chị đã làm nên những “Bẹ mía đường non – Ngọt cả tâm hồn”. Câu thơ chị có tiếng cười của con, có tấm lưng còng và giọt mồ hôi của mẹ…Và chị đã bước vào thế giới của cuộc đời bằng đôi chân ngày ấy với trái tim nhạy cảm, yêu thương vô bờ. Chị ru con bằng cả sự giản dị, hồn hậu mà đời thường bao người dễ dàng bỏ qua, niềm vui  như nở ấm trong tim mẹ để niềm đau tan biến giữa trời trong giấc ngủ con thơ – và thơ chị có chút ấm áp “rất đời” của nữ sĩ tài hoa Xuân Quỳnh:
                         “Ngủ ngon con yêu nhé
                           Dòng sữa mẹ thơm môi
                           Nụ cười con hoa nở
                           Hạnh phúc về tinh khôi”
                                                     (Nửa vành trăng)
               

Nghiêng những câu thơ cho một đề tài vĩnh cửu của thi ca - đề tài tình yêu, chị đã viết rất thật, rất hay về điều tự hát của trái tim dịu dàng, nữ tính của mình trong nhiều bài thơ dậy sóng những tình yêu. Những vần thơ như chín cả suy tư của đời chị, chín cả khát vọng và như một lời đồng vọng gửi về người thương từ bến cửa Tùng:
Hôn
        đắm đuối một đời
                 rồi tan giữa hư vô          
Sóng mang theo
          Cả lâu đài giã tràng trên cát
Con dã tràng
          Không còn ngơ ngác
Biết biển đa tình
                   Nên chỉ lặng im!”
                        (Cửa Tùng chiều tím)


Tình yêu đối với người phụ nữ hầu như bao giờ cũng gắn liền với số phận như một thứ định mệnh. Thế nên thơ của họ phảng phất buồn và mọi điều nói ra cũng cốt để che giấu nỗi buồn. Hình như trong quan niệm tình cảm cũng đã chi phối đến quan niệm thẫm mĩ, đường nét, giọng điệu, sắc màu trong thơ chị, bởi chị cũng không là ngoại lệ:
Thuyền ơi!
nhớ ghé về cồn chợ
Gối những giấc mơ
thật êm đềm…”
                           (Gối giấc mơ)


Thơ chị như chính thiên tính của người phụ nữ, như con tằm rút ruột nhả tơ, chị đã lặng lẽ dệt nên mảng màu của cuộc sống. Dưỡng chất ngọt ngào ứa ra từ trái tim chị kết tinh từ cái tâm trong sạch thánh thiện. Lời chân tình đó đủ sức vẫy gọi để có những nụ cuời và những giọt nước mắt người đồng cảm với những lời tự thú được soi ngắm từ nhiều phương diện của đời sống với cả hạnh phúc ngọt ngào lẫn khổ đau đắng chát. Lời chân tình ấy chảy vào trái tim thơ cao quý. Đó là vẻ đẹp tâm hồn của người mẹ, người vợ trong suốt triền thơ. Điều đó đến với người đọc như những tặng vật, và hiển nhiên mọi người sẽ có cách đón nhận riêng. Điều mà ta ghi nhận là có được tặng vật ấy cho đời chị đã chắt chiu, miệt mài, tâm huyết để dâng cho sự sống này những điều đẹp nhất, bởi với chị “Thơ là hiểu biết, là cứu độ, động lực, buông xả” (Octavio Paz). Và chị có những câu thơ buông mềm như sợi nắng lên gọi đời người sau những cơn mưa với những cuộc tình – có cái trắc trở chòng chành của sóng nước ca dao để gọi tên cho những tình yêu thuần khiết trong tim:
Vai mềm mười sợi nắng lên
Một đời từ cái chông chênh một đời
                                                   (Sợi thương)
Có khi:
Qua cầu anh bước mê say
Cầu bao nhiêu nhịp dạ này ngẩn ngơ
                                                  (Cầu giải lụa)


Đó là Eva của tiền kiếp; chị sẵn sàng từ chối những biểu trưng mới nhưng vẫn có thể hòa nhịp đến tận bề sâu. Đúng hơn, chị đối diện với mình để tâm hồn đồng vọng trên những trang thơ. Đến với điều này, thơ ca của chị đã tiếm vị cả thế giới xanh tươi bằng trái tim của mình để lí giải, chiêm nghiệm và sống cùng với nó hết cả một đời! Sự nhạy cảm của trái tim chị đủ để dung chứa một mùa xuân nào bay qua đời chị để xúc cảm dâng thành nỗi nhớ và thành thơ:
                        “Mưa về hư vô
                                          Về tháp đổ
                                                Về chiều phố cổ
                                                            Tháp Chàm ơi…!
                                          Ta nghe lòng mình
                                                Chạm vào nỗi nhớ
                                                            Chạm vào yêu thương
                                                                        Chạm vào kỉ niệm
                                                                                 Đất Quế ơi!
                                                                                (Mưa lòng).


Chế Lan Viên từng cất lên lời yêu trong “Tình ca ban mai” với những gì trong trẻo nhất ….thì hôm nay chị cũng có những bản tình ca cho mình và cho đời; những vệt sóng ngầm của suy tư và chờ đợi, tựa như đất trời rơi một giọt Tháp Chàm cũng đủ cho lòng chị rơi xuống những suy tư và ước vọng. Cấu trúc câu thơ rơi để ta giật mình tưởng đến “Trái tim hát những điều lỗi nhịp - Nên câu thơ trúc trắc không vần”. Khác với xưa vút lên bằng tiếng than, vọng về với nỗi trăn trở thì hôm nay chị đã hỏi người, hỏi mình thông qua hình ảnh lạ mà quen của ca dao xưa để khẳng định khát vọng mãnh liệt của mình:
                        “Người đàn bà mặc chiếc áo của mình
                       Sau lần áo là một mùa hạ cháy
                       Mùa đông về ôi lạnh lùng biết mấy
                       Chiếc áo choàng có đủ ấm không em?”.
                                  (Người đàn bà mặc chiếc áo choàng)
          

Lời phân thân từ chiếc áo tình tứ của ca dao hóa thành lời tự thú chân thành của con tim, mà con tim có biên giới vô biên của nó! Và cứ thế, nhà thơ Trương Lan Anh đã đến giữa cõi đời, cõi người bày tỏ trái tim chân thành và xúc động, chị đã vẽ trái tim mình xuyên qua câu chữ của lời thơ. Chị đã dám sống, dám yêu, dũng cảm đem những ngõ ngách tâm hồn mình vào một cuộc chơi không đơn giản: chơi với trái tim mình – chơi với nàng thơ; đúng như Hegel từng viết: “Thơ bắt đầu từ cái ngày mà con người cảm thấy cần bộc lộ mình”.   


Tự bàn tay gieo hạt, tự bàn tay lấy nước; người con gái Sông La đã đến đã về với dòng Ô Lâu- dòng Thạch Hãn để hai vùng đất khép chặt ân tình vẽ nên trái tim với bao nồng ấm, yêu thương và nghĩa tình trong thơ chị.Hai vùng đất bồi tụ nên phong cách vừa sâu thẳm, vừa dịu dàng ngọt mát như những dòng sông. Người đàn bà mặc chiếc áo choàng đã đến và gieo lại những mùa vàng cho thơ để cả tình yêu, hồn quê, hồn người sống dậy trong trang thơ của chị.Mỗi dòng thơ là hành trình đi tìm khuôn mặt cuộc đời và tái tạo cuộc đời bao chiều lên trang thơ hai mặt,người đọc cũng thầm chúc cho chị gặt hái những mùa thơ từ trái tim với bộn bề nỗi đời thao thức.                                                                                                                                                                                                                                   Nguyễn Văn Quốc

No comments: