Lê Thi
NGOẠI TÔI
Chỉ còn hai tuần nữa là đúng 100 ngày, ngoại tôi về miền mây trắng. Tôi
lạc lõng như đứa trẻ mồ côi bởi trong tất cả những đứa cháu, ngoại thương tôi
nhất.
Nhìn cái đèn bàn học cuối phòng,
cái áo dài treo trên tường, tất cả đều từ những đồng tiền bán bánh của ngoại
tích góp. Cũng không phải vì những thứ vật chất này mà tôi thương ngoại hơn nội,
nhưng do ngoại tôi không được may mắn như bao nhiêu người khác sinh ra trên cuộc
đời này.
Cuộc đời ngoại tôi như một quyển tiểu thuyết buồn! Cứ mỗi độ hè về, ba
tôi cho hai anh em về thăm quê nội. Tôi lớn lên với bao nhiêu kí ức về ông bà nội,
nhưng chưa một lần về thăm ngoại. Mãi đến năm lớp sáu, đó là lần đầu tiên đi về
ngoại và bây giờ là lần cuối cùng, nhưng ngoại còn đâu nữa ngoại ơi!
“Sao ngoại không cho con về thăm
quê ngoại, con thích ngoại kể về quê hương cho con nghe, cuối tuần rồi con có
bài văn tả về quê ngoại. Vậy mà ngoại hổng
kể cho con nghe, ngoại hổng thương con à?". Câu trách của tôi vô tình
như chạm vào nỗi đau của ngoại.
Đôi mắt ngoại đượm buồn, khi nhắc đến
hai tiếng quê hương:
“Quê ngoại nghèo lắm cháu ơi, ngoại
không được đến trường, ngoại không có một mái ấm gia đình, ngay cả cái tên ngoại
cũng không biết ai đặt cho ngoại!".
Ngoại quay mặt đi, giấu những giọt
nước mắt khi tuổi đã ngoài bảy mươi. Tôi ôm ngoại vào lòng, thương ngoại,
thương mẹ khi thiếu thốn tình thâm như thế. Ngoại tôi có mái tóc bạc phơ, khuôn
mặt nhân từ phúc hậu, chuỗi tràng hạt luôn đeo ở cổ từ ngày tôi còn bé đến giờ.
Nhưng sâu thẳm trong đôi mắt ngoại luôn đượm buồn. Tôi muốn mua một món quà thật
ý nghĩa tặng sinh nhật nhưng ngoại tôi cười bảo:
"Tùy cháu thích ngày nào cũng
được vì ngoại chưa bao giờ có ngày sinh nhật và biết ngày tháng năm sinh của
ngoại.".
Với tính tò mò, thơ ngây tôi hỏi:
“Sao kì vậy ngoại, ông bà cố không ghi chép,
xem tử vi cho ngoại giống như cháu
à?".
Ngoại ngồi trầm tư, nghẹn ngào và kể
về cuộc đời, những cơn đau thắt ruột. Từ lúc sinh ra, đến năm bảy mươi tuổi, ngoại mới biết mình là ai, và
ai là cha mẹ mình.
Ngoại tôi, một đứa trẻ mồ côi mẹ
khi mới ba tháng tuổi, được bà con làng xóm nuôi đến chín tuổi thì đi ở cho một gia đình ông giáo,
không được một ngày đến trường làng, hay được gọi một tiếng mẹ ơi, ba ơi. Mới
chín tuổi đầu, ngoại đã phải chịu đòn
roi, và làm biết bao nhiêu công việc trong gia đình ông chủ. Năm mười hai tuổi, ngoại đã phải chịu một trận đòn thừa sống thiếu chết vì nấu cơm bị cháy nồi. Những làn roi vút ngang
dọc rớm máu trên thân hình ốm nhom vì suy dinh dưỡng. Ngoại nhét vội bộ áo quần chạy thục mạng ra ga tàu, trốn khỏi căn nhà ấy trong đêm tối,
không một miếng giấy tờ tùy thân, chỉ biết một cái tên là Lượm.
Màn đêm buông xuống giữa núi rừng
bao la, những tiếng hú bầy vượn tìm bạn tình trong mùa sinh sản, tiếng cú mèo gọi
bạn ăn đêm. Ngoại nổi rợn gai ốc khi
không người thân, không bạn bè biết tìm đâu một mái ấm qua đêm?
Thấy một chuyến tàu, ngoại tôi đã
leo vội lên trên đó, không biết là đi Bắc hay vào Nam, chỉ biết đi, chạy khỏi
nơi đây càng xa càng tốt. Tiếng rượt đuổi trong đêm "Bắt lấy nó! Bắt lấy
nó!" ngân dài trong màn đêm ai oán. Ngoại nghĩ “Nếu bị bắt lại chắc sẽ ăn đòn roi đến chết!”
Kể từ ngày đó ngoại tôi buôn thúng
bán mẹt trên những chuyến tàu, nào thuốc lá, cà rem, một vài nhu yếu phẩm cho
lính, và khách suốt dọc tuyến miền Trung
trong những năm chiến tranh loạn lạc. Ngoại nhìn về quê hương nhung nhớ nhưng
không biết về thăm ai, chỉ có buồn thêm khi nghĩ về tuổi thơ tủi nhục và hiu quạnh.
Trong một chuyến tàu khuya định mệnh,
ngoại tôi bị một băng buôn bán khác đánh đập, cướp hết gia tài biết bao nhiêu
năm tích góp. Ngoại tôi ngồi trên hai túi màu xanh Robinson ngay giáp nối toa.
Đang ngủ gà ngủ gật, ngoại bỗng giật thót mình khi bị tiếng tát bốp vào mặt.
"Ê nhỏ kia, khôn hồn câm mồm, đưa hết túi đây cho tao, la lên tao đâm chết!"
Trong ánh đèn mờ nhạt loáng lên một
lưỡi lê trắng toát kề bụng, ngoại tôi đang lúng túng không biết tính sao để kéo
dài thời gian xử lí tình huống:
“Dạ... dạ... cho em xin một túi để sống qua
ngày ạ, mất hết chắc em nhảy tàu chết thôi. Cho em xin, em van anh, em lạy
anh...”.
Tên cướp đang kì cò, nó muốn hôn và
sàm sỡ người đẹp rồi nhảy tàu biến mất trong đêm dày đặc với giỏ hàng chiến lợi
phẩm kếch xù.
Thật may mắn, từ toa bên kia, cánh
cửa được mở, xuất hiện một chàng trai dáng người to khỏe vạm vỡ đang ra hút thuốc,
ngoại la lên:
“ Anh Tư, anh Tư ơi... cứu... em!“.
Tên cướp nhanh như cắt, ôm giỏ đồ
nhảy xuống trong đêm tối mịt mù. Như sự sắp đặt của thượng đế, anh hùng cứu mỹ
nhân, từ đêm ấy người ân nhân của ngoại năm xưa giờ chính là ông ngoại của tôi.
Năm 20 tuổi bà ngoại tôi kết hôn,
đám cưới làm đơn giản trong một làng quê
và không có ai đại diện bên ngoại trao quà cưới. Trước năm 1975, ngoại tôi chạy
xe Lam ở Biên Hòa. Sau giải phóng, ngoại chuyển về quê ông ngoại ở Quảng Trị.
Ngoại tôi quen buôn bán đâu biết làm ruộng, một mình ông ngoại lam lũ không
nuôi đủ 6 cái miệng ăn, ông bà ngoại đành bỏ xứ vô Bình Thuận, tìm lại gia đình
xưa đã cưu mang ngoại, nhưng nền kinh tế thời kì bao cấp cũng không ai muốn có
thêm gánh nặng, khi một gia đình 8 nhân khẩu đi theo và không vốn liếng, xác xơ
như chuột nhà thờ!
Một lần nữa quê hương không phải
chùm khế ngọt, nghẹn ngào chào dòng sông Lũy lững lờ chở theo cả tuổi thơ buồn
tê tái. Cuộc hành trình về miền Tây sông nước, ông ngoại đi đào ruộng thuê, bà
ngoại tôi ngược dòng trên các kênh rạch bán bánh bò, bánh ú, mẹ tôi chị cả chằm
nón bán cho dân làng. Cảnh gạo chợ nước sông rày đây mai đó, sáu anh chị nheo
nhóc sống nhờ vào thúng bánh của ngoại, còn ông ngoại lúc trái gió trở trời bị
những cơn đau hành hạ, chuyện đi làm mướn ít dần vì đâu ai muốn thuê mướn người
bệnh tật.
Nhiều lúc muốn bỏ cuộc, ngoại lại
muốn về bấu bíu vào quê, nhưng nhớ lại những cái nhìn lạnh nhạt, mọi hi vọng vụt
tắt.
Cả cuộc đời tần tảo lo cho chồng
con, chưa một lúc nào ngoại lo cho bản thân mình. Sau này có chút tài sản dành
dụm, ngoại tôi làm từ thiện hết. Cho đến giờ tôi mới hiểu vì sao ngoại lại có
tình thương bao la như thế!
Năm 2000, ông bà ngoại tôi đi qua
Canada theo diện cậu tôi du học bảo
lãnh. Qua bên đó được 5 năm, ngoại tôi trở về Bình Thuận lần thứ hai sau gần 30
năm xa cách, với tâm nguyện tìm gặp lại gia đình đã giúp mình để tri ân.
Vừa bước xuống chuyến xe khách ngay
chợ Lầu, ngoại tôi đang loay hoay hỏi nhà ông Giáo, vì sau 30 năm thay đổi quá
nhiều, đường sá rộng rãi hơn, xe cộ tấp nập đông đúc... Theo người dân hướng dẫn
địa chỉ cần tìm, ngoại tôi đi thẳng vào con hẻm sát bên chợ tầm 500 mét.
Vừa thấy bốn người bước vào sân vườn,
một bà cụ tầm 80 tuổi chạy ra ôm ngoại tôi kêu lên: "Mèn đét ơi, con
Hoa... con Hoa"... "Mi đã kịp trở về khi O chờ con mãi... Trời
ơi!"
Ngoại tôi đứng như trời trồng chẳng
hiểu chuyện gì xảy ra, ngoại tôi sao lại tên Hoa, sao người đàn bà xa lạ này lại
là O của ngoại?
Bà kéo ngoại tôi vào nhà, ôm khóc.
Bà gọi mấy ly nước mía và bà kể lại chuyện, cả gia đình ngồi nghe như một khúc
nhạc buồn.
Ngoại tôi chỉ ngồi khóc và khóc
mãi...
Bà cố ngoại tôi sinh ra bà ngoại được
ba tháng. Một buổi sáng, bên bờ sông Lũy hái bắp non về nấu ăn cho có sữa nuôi
ngoại, bị lính Pháp đi tuần tình nghi gián điệp cho Việt Minh rồi bắn chết.
Nhà ngoại nghèo không có nổi quan
tài, lấy chiếc chiếu rách gói buộc lại chôn bên bờ sông.
Vì ngày đó mang tiếng "chửa
hoang” nên xóm làng dè bỉu cười chê bên ngoại. Bà cố ngoại tôi nghe kể lại đẹp
lắm, trai làng tán tỉnh bà không ưa, sau đó trai làng ghét, hễ trai làng ở ngoài
qua sông vào tán tỉnh thì bị chặn lại đánh đập.
Khi tuổi 30 lỡ thì bà muốn có một đứa
con cho tuổi già sớm hôm đỡ hiu quạnh. Cả làng Vũ Đại xôn xao câu chuyện tình của
Chí Phèo và Thị Nở, thì làng chài này lại huyên náo chuyện tình cố ngoại tôi.
Ba tháng tuổi đỏ hỏn, đi xin bú khắp cả làng vì ngày đó đâu có gì ăn mà dư sữa
để cho. Con của họ vẫn ngậm mút đỏ cả đầu núm vú chưa có sữa lấy đâu cho con
hàng xóm!
Cũng không hiểu ngày đó ngoại tôi
ăn gì uống gì mà sống được đến 9 tuổi để đi làm con nuôi cho nhà ông giáo!
Gia đình ông giáo là một gia đình
tiểu tư sản, có cả một dãy toà lầu dọc theo đường quốc lộ buôn bán đủ các mặt
hàng. Trong nhà người ăn kẻ ở cũng đông, nhưng người ở đặc biệt nhỏ tuổi nhất
là ngoại tôi.
Bà O bước vô bàn thờ lấy ra một tờ
giấy khai sinh nội dung ghi: Nguyễn Thị Hoa. Con ông: Nguyễn Thanh Giáo. Nghề
nghiệp: Giáo sư toán học.
Bà chậm rãi kể tiếp: Con chính là
Hoa, con ông giáo. Vì không muốn phá vỡ hạnh phúc gia đình nên ông giáo qua
làng mướn con về làm con ở, hi vọng ông sẽ dạy chữ cho con". Khi con bỏ
đi, ông đi tìm khắp các ga tàu, bến xe nhưng không có một tin tức về con,
ông buồn và đổ bệnh. Cách đây 2 năm trước
khi mất, ông dặn O giữ kín những bí mật này, cầu Trời khấn Phật gặp con trước
khi nhắm mắt."
Khi bước qua tuổi thất thập, ngoại tôi mới được trả lại cái tên
cúng cơm và biết nguồn gốc cha mẹ mình. Nhưng không biết sự thật này là niềm
vui hay lại là nỗi buồn của ngoại!
Những đứa con của ông Giáo là những
người thành đạt. Họ là những giáo sư K, tiến sĩ X, giảng viên M... trong các
trường đại học. Họ là chủ những doanh nghiệp bề thế trên quê hương ngoại. Dù
đúng hay sai, họ không muốn ngoại tôi có mặt trong ngôi từ đường của họ, làm mất
đi danh giá dòng tộc.
Họ cũng không muốn nhận ngoại tôi
là chị của họ. Những ông cậu thờ ơ, lạnh nhạt nhìn đàn cháu như chúng tôi giống
bọn trẻ Châu Phi tới, chắc sợ nhờ vả xin ăn.
Năm 2010, ngoại tôi trở về tìm được
ngôi mộ cố nằm lặng lẽ quạnh cô quạnh bên bờ sông Lũy, bao nhiêu mùa nước lũ
dâng cao may mắn vẫn không cuốn trôi đi. Một nén nhang cho đứa con xấu số gặp lại
mẹ muộn màng. Từ ngày ấy bên sông, một ngôi mộ khang trang có chỗ trú mưa cho
những đứa trẻ nghèo chăn bò ẩn núp trong những ngày mưa nắng.
Quê ngoại tôi bên dòng sông, làng quê yên bình lắm, không có nhà tầng và
kín cổng cao tường, tài sản trong mỗi ngôi nhà là cái ti vi trắng đen và con
thuyền nhỏ ngay đầu ngõ sát bãi cát trắng
chạy ra bờ sông. Cái nắng ngày hè như thiêu đốt mọi thứ thành tro bụi.
Đặc sản tôi thích me khô và bánh
tráng ăn với mắm tôm. Ẩm thực ở đây thường
ăn ngọt, Nhưng rất ấm áp tình người.
Những năm tháng xa quê bệnh tật, ngoại tôi khao khát về lại một lần thăm
ngôi mộ mẹ tìm tuổi thơ bên dòng sông Lũy nhưng không thành hiện thực. Trước
lúc ra đi, ba tôi như hiểu được tấm lòng và trăn trở của ngoại, ba tôi mở bản nhạc
"Về Bình Thuận quê em”. Ngoại tôi nghe và ngủ say như con đò chiều theo
dòng sông đi mãi, đi mãi, ngày về chắc hẳn còn xa...
Ngoại đã về trong vòng tay bà cố
yêu thương. sáng chiều ngoại tha hồ gọi "Ba ơi, Má ơi!". Dù muộn màng
nhưng cuối cùng ngoại vẫn có một gia đình. Mong ngoại vãng sanh cực lạc,về miền
mây trắng.
Nhìn lên di ảnh ngoại cười tươi, con biết
ngoại đang vui. Ngoại ơi!
Hạ buồn 2025,
Lê Thi
thivanle1569@gmail.com

No comments:
Post a Comment