NHẤT THỐNG SƠN HÀ ĐẠI CÁO
Tiểu dẫn: Trộm nghĩ Đại Nam Thực lục ghi chép công đức của
Thế Tổ Cao hoàng đế là quá đầy đủ. Tuy nhiên, có được một áng văn chương để tóm
lược khá sinh động và sâu sắc công nghiệp muôn đời của Đức Cao Hoàng, đó cũng
là việc nên làm, trước để tỏ lòng biết ơn tiên tổ, sau để lưu lại cho các thế
hệ sau tiện đọc. Đó là lý do mà kẻ hậu học vốn là miêu duệ của Ngài viết bài
cáo này.
Trẫm thường nghe:
Thừa Thiên Mệnh tất làm vua;
Cứu Lương Dân thời được nước.
Gẫm mới hay, đạo lý ấy trăm năm phù kẻ nghĩa nhân;
Suy thì thấy, hoá công kia muôn kiếp hộ người đảm lược.
Nay mừng ngôi cửu tộ vững vàng;
Vẫn nhớ thuở tẩu bôn xuôi ngược.
Giòng huyết thống đã đành dạ hiếu, xông pha chốn mũi tên hòn
đạn, nào tiếc máu xương;
Phận truy tuỳ cam giữ chữ trung, lăn lộn nơi suối độc rừng
thiêng, cũng liều sức vóc.
Lệnh thông tri bách tính, dẫu người còn kẻ mất, cho dân binh
thấy rõ công huân;
Ban đại cáo nhất văn, khắp âm dưới dương trên, để tông tộc
chung chia hoạ phúc
Nhớ năm xưa,
Tránh quyền thần, Tiên Chúa1 vào Thuận Hoá, mở trời Nam xây
dựng sơn hà;
Thêm thổ địa, Sãi Vương2 lấy Mô Xoài, bỏ phương Bắc khước từ
phong sắc2.
Võ thì có Hữu Tiến, Hữu Dật,… công lao đời mãi sáng thanh
bi;
Văn thì là Phúc Kiều, Duy Từ,… tên tuổi sử còn lưu thực lục.
Khai khẩn đồng hoang núi thẳm, mồ hôi nước mắt kể biết mấy
sông;
Giao phong pháo nổ luỹ tan, xương cốt máu me đổ tràn từng
cuộc.
Hơn bốn mươi năm Bắc Nam nội chiến, kìa Bố Chánh còn lưu vết
đạn, kỳ được thua nghĩ bấy đau thương;
Qua sáu, bảy đợt Trịnh Nguyễn phân tranh, nọ Luỹ Thầy vẫn rõ
dấu gươm, trường thắng bại thấy thừa tức bực.
Đến Hiền Vương3 can qua tạm dứt, Trịnh Tạc đành thu quân cam
hận, dòng Linh Giang chia lãnh phận trong ngoài;
Tiếp Quốc Chúa4 cương giới rộng thêm, Mạc Cửu đà qui thuận
xưng thần, đất Hà Tiên thành địa đầu gấm vóc.
Biên Hoà, Gia Định lưu dân vào lập nghiệp, rộn ràng chợ búa
sát san;
Châu Đốc, Tân Châu nông binh đến khẩn hoang, nhộn nhịp xóm
làng đông đúc.
Công nghiệp bao đời đã tỏ, ân uy văn võ chỉnh tề;
Xa thư một cõi thành riêng, ấm trạch quan dân sung túc.
Đúc Nguyễn ấn5 lưu tôn truyền tử, sáng lạn triều nghi;
Xưng Võ vương6 định phận chính danh, rỡ ràng uy lực.
Những tưởng dân an quốc thái, như lời sấm Trạng, vạn đại
dung thân7;
Nào hay ấu chúa lộng thần, tựa tích sử Nam,8 nhất thời vong
quốc.
Nghĩ mà giận,
Trương Phúc Loan gian tham, loạn quyền ép chúa, gây nhiễu
nhương trăm họ tai nàn;
Hoàng Ngũ Phúc điêu toa, thừa thế vượt sông, chiếm dinh phủ
một triều tan tác.
Định vương Thuần bôn đào Gia Định, chiêu binh hầu khôi phục giang
sơn;
Hoàng tôn Dương cố thủ Quảng Nam, thất thế trúng âm mưu khấu
tặc.
Đất phương Nam lại anh hùng tụ nghĩa, kìa kìa đoàn lữ Tứ
Nhân;9
Cõi miền Trung thêm thảo đảng tung hoành, nọ nọ đệ huynh
Biện Nhạc.
Lữ cùng Huệ thực đà quá dữ, thuỷ bộ hãm vây Gia Định, chưa
mấy hồi thành lỡ binh tan;
Vương với Tôn10 ơi bấy thảm thương, quân tướng rút tận Long
Xuyên, chẳng bao chốc thân lìa hồn lạc.
Nghĩ mà xem,
Cơ nghiệp bao đời để lại, lẽ nào không dạ giữ gìn;
Công huân các chúa còn đây, đâu dễ đành tâm bỏ mặc.
Từ Thổ Chu trở về báo hận, cường địch nào ngăn được thế Hiếu
Quân11;
Đến Gia Định thu lại địa bàn, chư tướng quyết vinh phong
người Nhiếp Quốc.12
Đã mấy phen thần tiên phù hộ, xưa đỡ dạ bòn bon đất Quảng,13
nay nước ngọt biển cả dâng vua14;
Thêm bao lượt linh vật cứu nguy, lúc nâng trâu cá sấu sông
Vàm,15 khi kỳ đà đầu thuyền cản bước.16
Thế chẳng phải Trời cao chọn kẻ chăn dân;
Nên mới cho Đất hiểm rèn người trừ giặc.
Gian lao không xiết kể, rừng hoang đảo vắng hang sâu;
Đói khổ có thiếu gì, cơm hẩm bần chua mắm ruốc.
Ngẫm thời bỉ vận, thoạt Côn Lôn rồi Gia Định, các ngươi bụng
hẳn chưa quên;
Nhớ thuở sa cơ, nay Phú Quốc mai Xiêm La, riêng Trẫm lòng
còn xót buốt.
Gan thay giặc Huệ năm lần17 tiến đánh, binh hùm tướng cọp,
hoá ra hữu lực vô công;
Giỏi thật binh Nam ba đợt18 trả đòn, gươm ngắn giáo dài, nào
kém trí mưu thao lược.
Bọn Nguyễn Lữ cong giò tuôn chạy, cơn khiếp run suy sụp lòng
binh;
Chúa Bắc Bình nhắm mắt lìa đời, nỗi sợ hãi còn lưu câu
trối.19
Thế Quang Toản càng ngày càng núng, quan tướng vương thần
tranh quyền đoạt vị,20 chẳng nề bách tính nguy an;
Triều Tây Sơn mỗi phút mỗi tàn, bá tôn huynh đệ xáo thịt nồi
da,21 chi kể tình thâm cốt nhục.
Lũ Nhạc Bảo thành Quy Nhơn thọ tử,21 ngai Trung Ương giềng
đứt mối tiêu;
Bọn Diệu Dũng đồng An Cựu tranh hùng,20 phe Cảnh Thịnh tơ vò
gút thắt.
Dân khát thái bình như con khát sữa, khản đặc tiếng kêu;
Nước trông minh chủ tựa hạn trông mưa, đỏ ong con mắt.
Thế nên,
Đại nghiệp công thành;
Giang sơn thống nhất.
Kẻ quy hàng kìa Đốc Sở, Văn Tham, kìa Văn Trương, Lê Chất,…
treo tấm gương sáng loà ngọn đuốc, nên phò chân chúa, minh vương;
Người trung nghĩa nào Phước Mân, Văn Tiếp, nào Võ Tánh, Tùng
Châu,… xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, đâu sợ hoả thần, độc dược.22
Dưới trướng Trẫm, danh thần mưu sĩ nào nhớ hết tên;
Theo cờ Nam, hào kiệt anh tài sao kê đủ mặt.
Cờ nhân nghĩa23 rợp trời nam bắc, binh ta mỗi lúc mỗi đông;
Quân điếu phạt24 vang rộn đông tây, thế địch càng ngày càng
ngặt
Trận Cửa Eo, Quang Toản tan binh bại tẩu, vua tôi một lũ tả
tơi;
Thành Nghệ An, Diệu Xuân25 thúc giáp phúc tâm,26 quan tướng
mấy thằng xơ xác.
Thừa thế lũ tràn thác đổ, binh triều đánh đâu thắng đó, tiến
chiếm Thanh Hoá, Sơn Nam;
Kinh hồn cung rớt đao rơi, giặc nguỵ chui nọ lủi kia, chạy dồn
Hải Dương, Kinh Bắc.
Vượt Nhị Hà mắt hoa óc bủn, tham sống sợ chết, bọn Cảnh
Thịnh buông giáo qui hàng;
Đến Phượng Nhãn gối mỏi chân run, kiệt sức cùng đường, bầy
Thuỳ Tú27 trở gươm tự sát.
Năm Tân Dậu an dân Thuận Hoá, binh như thần nương ngọn gió
trời;23
Đến Nhâm Tuất thu phục Thăng Long, giặc tựa chuột sắp tràn
mặt đất.
Mừng thay,
Can qua đã tận, càn khôn hạo khí đầy trời;
Loạn lạc qua rồi, nhật nguyệt quang minh toả sắc.
Bù cay đắng hai mươi lăm năm chinh chiến, nằm gai nếm mật,
dựng nên cơ nghiệp ngàn thu.
Thoả khát khao chín đời tiên chúa ước mơ, ngày nấu đêm nung,
dựng riêng thái bình một nước.
Tiệc khao công thoả lòng tướng sĩ, chuyện đời báo đáp, nêu
gương lành cho trăm cõi nhuần ân;
Lễ hiến phù28 tỏ rạng vương uy, sự thế trả vay, nghiêm phép
nướcđể muôn nhà khiếp phục.
Này Nam Vang nọ Vạn Tượng, vui mấy bên hoà hiếu lân bang;
Từ Cà Mau đến Nam Quan, đẹp một dãi cẩm hoa xã tắc.
Cơ thạnh trị mất rồi lại có, nay chốn chốn vầy đời hoan lạc,
chư khanh hãy phấn chí kiên tâm;
Nền thái bình khổ hết sang vui, để nơi nơi vang tiếng âu ca,
các ngươi ráng tận trung nỗ lực.
Cầu tổ tông mãi che chở dài lâu;
Mong bách tính luôn giữ gìn vững chắc.
Nay đại cáo tứ phương
Hãy thanh tâm nhất độc.29
Khâm thử.
Nguyễn Phúc Vĩnh Ba cung soạn.
(Dựa theo Đại Nam thực lục của Nguyễn triều Quốc Sử quán và
Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim) - Mùa Xuân Tân Mão (2011)
Chú thích:
1. Tiên Chúa: Thái Tổ Hoàng Đế huý Nguyễn Hoàng, vị chúa
Nguyễn thứ 1. Ngài đã tránh mưu hại của Trịnh Kiểm bằng cách xin vào trấn thủ
Thuận Hoá.
2. Sãi Vương: Hy Tông
Hoàng Đế huý Nguyễn Phúc Nguyên, vị chúa Nguyễn thứ 2. Ngài đã lập dinh điền ở
Mô Xoài gần Bà Rịa và dùng kế của Đào Duy Từ trả lại sắc phong của vua Lê.
3. Hiền Vương: Thái Tông Hoàng Đế huý Nguyễn Phúc Tần, vị
chúa Nguyễn thứ 4. Năm Nhâm Tý (1762) đã đẩy lui được trận chiến cuối cùng
trong 07 lần giao tranh với họ Trịnh, kết thúc cuộc Nam Bắc phân tranh.
4. Quốc Chúa: Minh Vương huý Nguyễn Phúc Chu, vị chúa Nguyễn
thứ 6.
5. Minh Vương cho đúc ấn “Đại Việt Quốc Nguyễn Chúa Vĩnh
Trấn Chi Bảo” làm ấn truyền quốc, được dùng cho đến đời Thế Tổ Gia Long.
6. Năm Giáp Tý (1744) vị chúa Nguyễn thứ 8 Nguyễn Phúc Khoát
xưng Võ Vương, cho đúc Quốc Tỷ và dựng tông miếu.
7. Theo Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm thì Tiên Chúa Nguyễn Hoàng vào Thuận Hoá lập sơn hà thì sẽ
“Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”.
8. Lê Hoàn cướp ngôi
của Đinh Vệ Vương (6 tuổi), Lý Công Uẩn giành ngôi của con Lê Long Đỉnh (còn
nhỏ), Thái sư Trần Thủ Độ cướp ngôi của Lý Chiêu Hoàng (8 tuổi), Hồ Quý Ly cướp
ngôi của Trần Thiếu Đế (3 tuổi),…
9. Tứ Nhân tức Mạc
Thiên Tứ và Đỗ Thành Nhân.
10.Vương với Tôn tức Định Vương Nguyễn Phúc Thuần, vị chúa
Nguyễn thứ 9 và Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương bị giặc bắt giết tại Long Xuyên.
11. Đoàn quân mặc áo tang do Thế Tổ Nguyễn Phúc Ánh tái
chiếm Gia Định, trả thù cho Định Vương và Hoàng tôn Dương.
12. Cuối năm Đinh Dậu (1777) sau khi chiếm lại Gia Định, chư
tướng tôn Đức Thế Tổ lên làm Đại nguyên suý, Nhiếp quốc chính. Lúc này Ngài mới
17 tuổi.
13. Khi lưu lạc ở Quảng Nam, vua Gia Long đã ăn trái bòn bon
chống đói. Ngày nay trái bòn bon vẫn còn vết lõm, tương truyền là dấu móng tay
của Ngài.
14. Khi bị quân Tây Sơn truy đuổi. lênh đênh trên biển nhiều
ngày, hết cả nước ngọt. Nhàvua mới khấn trời, chợt thấy dưới bể có dòng nước
ngọt, múc uống mới khỏi chết khát.
15. Năm 1783 Nguyễn Phúc Ánh bị quân Tây Sơn truy đuổi, Ngài
phải cỡi trâu qua sông Vàm Cỏ (Lật Giang). Nước chảy xiết, cuốn trâu đi. May
thay một con cá sấu lớn nổi lên, nâng con trâu đưa Ngài sang sông.
16. Khi Nguyễn Phúc Ánh định đem quân thuỷ ra biển thì một
con kỳ đà cản trước mũi thuyền. Nhờ thế nên ông mới thoát khỏi bẫy giăng của
thuỷ quân Tây Sơn ngoài khơi.
17. Nguyễn Huệ đã 05 lần đánh Gia Định để diệt quân của
Nguyễn Vương Ánh.
18. Nguyễn Phúc Ánh đã 03 lần đánh Quy Nhơn để trả đòn.
19. Trước khi mất, Nguyễn Huệ trăn trối rằng “Bọn ngươi nên
cùng nhau giúp Thái tử sớm thiên đến Vĩnh đô (Nghệ An) để khống chế thiên hạ.
Không thế thì quân Gia Định lại, bọn ngươi không có đất mà chôn đấy.”
20. Võ Văn Dũng giết Bùi Đắc Tuyên, Trần Quang Diệu đánh Võ
Văn Dũng, Quang Toản giết Lê Trung, Nguyễn Văn Huấn…
21. Quang Toản bức tử bác mình là Nguyễn Nhạc, và về sau
giết anh họ Nguyễn Quang Bảo, con Nguyễn Nhạc.
22. Ngô Tùng Châu uống thuốc độc, Võ Tánh tự thiêu tại Quy
Nhơn để tử thủ giữ chân quân chủ lực của Tây Sơn, hòng giúp Nguyễn Phúc Ánh
thừa cơ chiếm Phú Xuân.
23. Dân chúng chán ngán triều Quang Toản hủ bại, mong mỏi
Nguyễn Vương Ánh trừ bạo nên có câu hát “Lạy Trời cho cả gió nồm/ Để cho chúa
Nguyễn giong buồm thẳng ra”
24. Quân điếu phạt: Thương xót mà ra quân trị bọn có tội,
dẹp giặc cứu lương dân.
25. Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân.
26.Thúc giáp phúc tâm: Bó áo giáp, đổi lòng hàng địch.
27. Nguyễn Quang Thuỳ và Đô đốc Tú.
28. Vua Gia Long hành hình Quang Toản và anh em của Toản
cùng các bầy tôi Tây Sơn như Bùi Thị Xuân. Ông còn quật mộ Thái Đức, Quang
Trung để trả thù việc Nguyễn Huệ trước đó quật mộ các Chúa Nguyễn qua câu nói
“Trẫm vì chín đời mà trả thù là nghĩa lớn kinh Xuân Thu”
29. Thanh tâm nhất độc: Lắng lòng mà đọc một lần.
Trích từ tập sách
TÂM THÀNH LỄ BẠC
Cáo Phú Hịch Văn Tế Văn Bia
Tác giả: Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
(Tác giả gởi tặng)
TÂM THÀNH LỄ BẠC
Cáo Phú Hịch Văn Tế Văn Bia
Tác giả: Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
(Tác giả gởi tặng)
No comments:
Post a Comment