Tác giả Đào Dân
QUÊ
NGOẠI
Ông ngoại mất khi tôi chưa đầy năm tuổi sau một trận
càn của Tây, vậy là căn nhà của ông ở làng Tài Lương tỉnh Quảng Trị gần như
không còn ai. Các cậu Bí, Khôn, Du, đã lần lượt thoát ly ra vùng kháng chiến
sau khi cậu Giải bị Việt Minh bắt đi mất tích. Các dì khác và mẹ tôi đã đi lấy
chồng, chỉ còn dì Phồn út thì cũng phải “thoát
ly” lên Tỉnh để tránh bom rơi đạn lạc và sống nương nhờ ở nhà ông Thị, người
em út cuả ông ngoại đã về hưu sau mấy chục năm làm việc cho chính phủ Nam Triều.
Hai căn nhà rường bề thế trong đó xen lẩn giữa hàng đống
thóc lúa rơm rạ cùng kẻ ăn người ở đầy nhà là những tủ đựng đầy sách báo Hán và
Việt ngữ như Kiều, Chinh Phụ, Cung Oán hay Lục Vân Tiên cùng với những tạp chí
nổi tiếng thời bấy giờ như Nam Phong, Đông Dương hay Phong Hóa...
Khi những tiếng hò khoan, tiếng tắc rì và tiếng nói
chuyện râm ran của đám thợ cày thợ cấy chấm dứt thì tiếng ngâm thơ của ông ngoại
và các cậu vang lên làm cho mấy chị em gái trong nhà (trong đó có mẹ tôi) dù
không đi học mà ai cũng thuộc lòng nhiều đoạn, nhiều bài đến nổi nhập tâm nên
sau này khi tôi học lớp Đệ Ngũ, nhân một dịp dì Nghè từ làng An Lưu lên thăm và
ở lại nhà chơi, dì nghe tôi đang tụng mấy bài học thuộc lòng của cuốn Chinh Phụ
Ngâm, dì đã nhờ tôi chép lại toàn bộ cuốn ấy vào một tập vở học trò rồi dì mang
về nhà đọc hàng ngày, như một quyển sách gối đầu giường để cảm thông, chia sẽ,
thương xót cho thân phận người chinh phụ có chồng đi chinh chiến miền xa.
Còn mẹ tôi thì suốt ngày đọc thơ Kiều, lại còn vô tư đổi
vài chữ trong các câu thơ của cụ Nguyễn Du chỉ vì kiêng tên của một ông hay bà
tổ tiên nào đó. Như chữ “tình tình”
trong câu “Nên câu tuyệt diệu ngụ trong
tình tình” mẹ tôi đổi thành chữ "tiềng tiềng" mà hồi nhỏ tôi vẫn
thắc mắc không hiểu ý nghĩa của nó rồi bắt mẹ giải thích cho được. Và cũng nhờ
những bài thơ trong trí nhớ mà mẹ không những đã động viên được các anh chị tôi
siêng năng giã gạo bằng vồ vào những đêm trăng sáng mà còn lôi cuốn được chị
Miêng con mụ Cửu bên xóm đến phụ giúp, để chỉ được nghe mẹ đọc và giải thích
chuyện tình Lục Vân Tiên với Kiều Nguyệt Nga để rồi cùng với hai bà chị tôi
khóc cười theo cuộc thăng trầm của đời nàng.
Tuy nhiên những khung cảnh vừa rộn ràng bừa bộn vừa
thơ mộng lãng mạn của một gia đình hạnh phúc với nhà cửa, con cái, của cải, với
sách báo và tiếng ngâm thơ ấy nơi nhà ông ngoại, ông Tú Dự , chỉ còn là một
chuyện cổ tích hấp dẫn để mẹ kể cho lũ chúng tôi nghe mỗi khi bà rảnh rổi, nhất
là vào những ngày đông tháng giá, không có việc làm, ngoài trời lại mưa rả
rích, mẹ con ngồi bó gối bên đống lửa hồng ăn bắp rang thay cơm, để chúng tôi
có dịp mơ về một thời vàng son xưa cũ với bao tiếc nuối cho một quá khứ đã đi
xa.
Tất cả cái quá khứ huyền thoại ấy, trong tôi chỉ còn
lưu lại hình ảnh của hàng cây cao xanh rì bên bờ An Võ mà lũ nhóc hai ba tuổi
chúng tôi mỗi chiều thường ra đứng trước ngõ nhìn sang bên đó, để hưởng được sự
sảng khoái từ làn gió nồm mát rượi đang lồng lộng thổi sang. Dường như hàng cây
cao như rừng ấy có một nét huyền hoặc nào đó mà khi thấy một vài anh nông dân
đen đủi gánh khoai lúa gì đó từ ngoài đồng đi ngang qua là lũ nhóc tụi tôi lại
đồng loạt la vang: ma, ma, ma, rồi rùng rùng bỏ chạy vô nhà.
Thế, quê ngoại trong tuổi thơ tôi chỉ còn lại độc mỗi
chừng ấy.
Khi tôi lớn lên một chút, bao hình ảnh của một thời
hoàng kim chỉ còn lại hai cái nền nhà nằm trơ trọi giữa một khu vườn um tùm cỏ
dại mà bao quanh là những cây tre già cằn cỗi. Trên nền nhà chính được mấy chị
em gái của mẹ cùng với mợ Trang, vợ cậu Khôn, dựng lên một căn lều tranh nhỏ
xíu làm nơi hương khói. Cái nền nhà còn lại được mọi người đồng ý cho anh
Trương, một người bà con xa trong họ dựng lên đó một căn nhà tranh để ở và để
chăm sóc vườn tược. Nhìn chung khu vườn trông có vẽ nhếch nhác và thiếu sinh
khí, cằn cỗi và bệnh hoạn. Vậy mà nó vẫn là nơi thu hút chúng tôi, những đứa
cháu ngoại, cùng với mẹ, các dì dượng, hàng năm hai ba lần tụ hội về gặp nhau
vào những ngày giỗ tết để rồi khám phá ra cái giang sơn của một gia tộc của 6
anh em ông ngoại với những ông Nghè, ông Thị, ông Thầy, ông Giáo, ông Tú...nay
chỉ còn loanh quanh bên nhà mụ Giáo cô độc với một mình dì Chiết , và sau lưng
là nhà mợ Phán, rồi cậu Úy và cậu Khả, mà mổi lần đi thăm lại phải chui qua
hàng tre đầy gai nhọn, và nhảy qua một cái mương rãnh thoát nước nhỏ hẹp.
Thường mẹ con tôi về ngoại theo con đường quốc lộ 1 ra
tỉnh rồi xuôi về cầu Ba Bến. Để đến nơi, đôi chân trần của mẹ và của thằng bé
chỉ trên dưới 10 tuổi đã phải trải qua khoảng hơn 10 cây số. Nhưng có lúc, nhất
là vào mùa hè nắng cháy, để rút ngắn đoạn đường, mẹ đã dẫn tôi len lỏi qua những
đám ruộng cày ải trắng xóa của làng Đại Nại, Long Hưng để qua Đập Đá rồi về nhà
Bác Thiệu cạnh bờ sông Vĩnh Định.
Bác chỉ là người bà con sui gia ở làng Trâm Lý, thế mà
mẹ cũng ghé vào thăm một chút, nói vài câu chuyện trong lúc chờ chuyến đò ngang
qua sông. Nhưng con đường nào với tôi cũng là xa vạn dặm mà tôi thường phải chạy
lúp xúp theo đôi chân thoăn thoắt của mẹ. Trước khi về Tài Lương, thường chúng
tôi ghé vào nhà dì Bộ Hồng ở làng Đạo Đầu, người chị cả mà dượng Bộ với tư cách
là một anh cả thay mặt cả gia đình, hướng dẫn các em vợ trong việc cúng kiếng
hay chăm lo nhà cữa và mồ mả cho hai ông bà ngoại. Từ đó, cùng với dì Sô, dì Phồn
và mợ Trang gồng gánh đồ cúng đem về nhà mụ Giáo để gặp dì Nghè từ làng An Lưu
sang. Mọi sinh hoạt đều diễn ra tại đây, nấu nướng, ăn uống, chuyện trò, ngay cả
đi thăm viếng cũng xuất phát từ đây với sự trợ giúp của dì Chiết và những người
còn lại trong giòng tộc. Căn lều nhỏ thờ cúng ông bà ngoại chỉ nhộn nhịp trong
chừng nửa giờ, vào lúc giữa trưa, với đàn con cháu, bà con nội ngoại tập trung
làm lễ trước bàn thờ, lạy lục, khấn vái, với hương đèn nghi ngút, với giấy tờ
vàng mã được đốt lên để rồi sau đó, mọi người đem những gì còn lại trở về nhà
dì Chiết. Để lại căn lều nhỏ bé cho sự hoang vắng và buồn tẻ. Dường như mọi người
đã quên, bỏ hết cái quá khứ vàng son ấy sau lưng, và sống với những gì mình còn
lại của ngày vui anh chị em hội ngộ.
Sau này, khi đã lớn khôn, giữa lúc chiến tranh đang diễn
ra khắp nơi, có lần tôi một mình đạp xe về thăm lại nơi căn lều ấy, thắp nén
hương cho ông bà ngoại. Cả ngôi làng vắng lặng, căn lều cũng vắng lặng âm u.
Nhìn làn khói hương bay tản mác vào không gian mơ huyền ấy, tôi như cảm được nỗi
u hoài của một thời đã qua, dường như còn phảng phất đâu đây. Ra đứng nơi đầu
ngõ, nơi ngày xưa tôi cùng đám nhóc tì đã đứng, nhìn qua bên kia. Hàng cây An
Võ vẫn xanh rì ở trước mặt, và tôi ngạc nhiên sao hồi đó thấy như từ cỏi xa xôi
nào. Không còn vẻ huyền bí ma quái nào cả mà chỉ còn là sự trơ trụi, xơ xác và
những con ma đen đủi thì chỉ là hình dáng của những nông dân đang vật lộn với
cuộc sống.
Bây giờ ngồi đây, bên bàn phím này, nơi xứ Mỹ xa xôi
này, vào lúc im lặng nhất của ban đêm, 4 giờ sáng, tâm trí tôi hoàn toàn đi vào
cõi xa xăm mộng ảo, đi vào miền quá khứ lung linh. Hồi tưởng lại căn lều tranh
nhỏ bé nằm cô độc chơ vơ trên cái nền gạch loang lổ, giữa những vồng sắn mà anh
Trương đã trồng lên, èo uột. Tôi như linh cảm được đâu đây phảng phất quanh tôi
linh hồn của những người đã khuất, bên nội, bên ngoại, anh em, bạn bè... Những
người chết trận, những người chết bệnh, những người chết già. Họ đã đi rất xa,
nhưng họ cũng đang lẩn quất đâu đây. Phải chăng, con người ở đâu, linh hồn ở
đó, như một ràng buộc từ tình máu mủ và cả tình yêu thương? Và phải chăng điều
này giải thích cho sự việc mảnh đất từ bao đời đang hưng vượng bổng trở nên cằn
cỗi từ khi ông bà ngoại mất đi mà các cậu thì đi biền biệt không về? Và cũng giải
thích cho sự gắn bó tình cảm của tuổi trẻ tôi với các anh chị em bạn dì như
Phú, Hoàng, Thược, chị Lài, chị Lựu, anh Chiến... dù họ ở các nơi xa như làng
Thạch Hãn, hay ở tận Phú Bài Thừa Thiên xa lắc hơn là chính nơi làng Tài Lương
quê ngoại?
Đào Dân
No comments:
Post a Comment