Nhà thơ Yến Lan thời còn trẻ
BẾN
MY LĂNG
Bến
My Lăng nằm không, thuyền đợi khách,
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu.
Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để gió lén mơn râu.
Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để gió lén mơn râu.
Ông không muốn run người ra tiếng địch
Chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao,
Vì đìu hiu, đìu hiu, trời tĩnh mịch
Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao.
Chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao,
Vì đìu hiu, đìu hiu, trời tĩnh mịch
Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao.
Trôi quanh thuyền những lá vàng quá lạnh
Tơ vương trời, nhưng chỉ rải trăng trăng,
Chiều ngui ngút dài trôi về nẻo quạnh,
Để đêm buồn vây phủ bến My Lăng.
Tơ vương trời, nhưng chỉ rải trăng trăng,
Chiều ngui ngút dài trôi về nẻo quạnh,
Để đêm buồn vây phủ bến My Lăng.
Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã,
Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly,
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả
Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi.
Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly,
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả
Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi.
Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách,
Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng,
Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách,
Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng.
Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng,
Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách,
Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng.
Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng.
Yến Lan
ĐỌC “BẾN MY LĂNG” THƠ YẾN LAN
Châu Thạch
Châu Thạch
Nhiều nhà phê bình văn học nghiên cứu
về thơ Yến Lan cho biết bến My Lăng không có thật, chỉ là một cái tên tác giả
đặt ra. Vậy thì trước hết ta hãy tưởng tượng bến Mi Lăng là cái bến thế nào.
Tra trong tự điển Hán Việt tôi thấy chử “mi” có nhiều nghĩa, nhưng nghĩa chung
cúa nó mang hình ảnh của sự tươi đẹp, dịu dàng, mong manh. Chữ “lăng” cũng có
nhiều nghĩa nhưng trong đó có một nghĩa là “nước đóng thành băng”. Ghép hai chữ
“Mi” và chữ “Lăng” ta có thể liên nghĩ đên hai từ nầy chỉ một bến nước buồn, lạnh
lẽo và rất đẹp . Vậy đọc bốn câu của khổ thơ đầu ta có thể hiểu được ý tác giả muốn nói điều gì:
Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi
khách,
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu.
Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để gió lén mơn râu.
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu.
Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để gió lén mơn râu.
Trước tiên ta thầy một con thuyền nằm yên nơi một bến sông
vắng vẽ. Ánh trăng bát ngát đổ lên thuyền, đổ trên ông lái đò đang say ngủ và
rơi đầy trên mặt sách. Đọc thơ ta biết ông lái đò đọc sách. Vậy đây không phải
là một ông lái đò bình thường. Cái câu “Trăng thì vàng rơi đầy trên mặt sách”
tự nhiên làm ta kính nể ông lái đò ngay, và tự nhiên làm cho ta thấy có cái gì
bí ẩn đánh động trí tò mò. Bến sông bây giờ không tầm thường như bao bến sông
khác. Nó mang đậm chất thơ vì nó là My Lăng nghĩa là đẹp và rất lạnh, lạnh đến
đóng thành băng. Nó mang đậm chất thanh cao, hào hùng ví ông lái đò là người
đọc sách. Vậy có thể ông lái đò là một nhân sĩ đang ẩn danh nuôi chí lớn.
Khổ đầu của bài thơ vẽ nên một bức tranh tỉnh lặng, nhưng
nhìn bức tranh tỉnh lặng đó thì hồn ta động. Động là vì cảnh hiện ra lồng lộng,
trăng tràn lan như thật trước mắt ta, Động là vì ẩn trong giấc ngủ của ông lái
đò, ta như có linh cảm đến những biến động trong hồn ông chìm dưới đáy sự yên
lặng đó. Bởi sự kiện trăng rơi trên
sách,ta có cảm tưởng giấc ngủ ông lái đò không có chút bình an nào mà chất chứa
trong lòng ông muôn vàn u uẩn.
Để chứng minh cho tấm lòng u uẩn của ông lái đò, Yến Lang
khẳng định trong bốn câu thơ sau:
Ông không muốn run người ra tiếng
địch
Chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao,
Vì đìu hiu, đìu hiu, trời tĩnh mịch
Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao.
Chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao,
Vì đìu hiu, đìu hiu, trời tĩnh mịch
Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao.
Thường một người biết thổi sáo hay là địch thì họ sẽ thổi
lúc buồn hay lúc vui, còn khi mà họ cảm thấy chán chường thì họ không thổi bao giờ. Hai câu thơ trên
cho ta thấy ông lái đò là một người tài hoa. Tài hoa vì ông đọc sách và biết
thổi địch, lại thổi rất hay nên tiếng
địch của ông “chở mãi hồn lên tắm bến trăng sao”. Ở đây ông lái đò “không muốn
run người ra tiếng địch” giữa cảnh thơ mộng đầy trăng thì ta biết ông đang có
tâm trạng chán chường. Rượu đã hết, ông lái đò ngủ say nhưng không phải ông say
rượu, vì ông còn tỉnh táo để biết mình không muốn thổi địch trước cảnh trời đìu
hiu, võ vàng và thiếu những vì sao. Diều đó chứng tỏ có tâm sự trĩu nặng hồn
ông khiến ông chán chường muốn quên đời trong giấc ngủ say. Câu thơ “Trời võ
vàng, trời thiếu những vì sao” cũng gián tiếp nói lên sự chán chường và phương
hướng bị mất trong con người cô đơn trên bến vắng.
Bốn câu thơ diễn tả tâm trạng yếm thế của ông lái đò, cũng
làm cho người đọc cùng mang tâm trạng đó, khiến cho cái bến sông rất đẹp dưới
trăng tỏa một làn hơi lạnh, khiến cho ta cũng se lòng trước cái võ vàng, cái
thiếu vắng trời sao hay đúng ra, sự võ vàng và thiếu vắng trong lòng ông lái đò kia.
Qua khổ thơ thứ ba tác giả hoàn toàn tả cảnh, đúng như lời
mà nhà phê bình văn học Hoài Thanh- Hoài Chân nhận xét trong quyển “Thi nhân Việt Nam”:“ Cảnh như muốn
theo lời mà tan ra. Nó chỉ mất một tí rõ ràng để được thêm rất nhiều thơ mộng.
Yến Lan cũng làm thơ lối ấy, nhưng Yến Lan đi quá xa”:
Trôi quanh thuyền những lá vàng quá
lạnh
Tơ vương trời, nhưng chỉ rải trăng trăng,
Chiều ngui ngút dài trôi về nẻo quạnh,
Để đêm buồn vây phủ bến My Lăng.
Tơ vương trời, nhưng chỉ rải trăng trăng,
Chiều ngui ngút dài trôi về nẻo quạnh,
Để đêm buồn vây phủ bến My Lăng.
Tại sao Hoài Thanh- Hoài Chân nói “Yến Lang đi quá xa”? Quá
xa vì cảnh thật thơ mộng, nhưng cái thơ mộng đó còn như trong giấc chiêm bao.
Hai câu thơ đầu nói đến tơ trăng quá lạnh. Câu thơ thứ ba chỉ hình bóng buổi
chiều trôi như ở tít một chân trời tâm tưởng. Câu thứ tư có chữ My Lăng làm cho
đêm buồn như đóng băng lóng lánh. Cả khổ thơ cho ta một không gian mộng và với
câu thơ “Chiều ngui ngút trôi về nẻo quạnh” tác giả còn cho ta thấy dược thứ
thời gian có hình sắc “ngui ngút” bay về nơi xa tít ở chân trời. Đọc thơ ta cảm
thấy lạnh bao nhiêu thì đẹp bấy nhiêu, quạnh bao nhiêu thì đẹp bấy nhiêu, hầu
như hồn ta đang lắng vào giấc mơ và bay về bên My lăng.
Rồi thì, trong cảnh yên tịnh đó diễn biến bất ngờ xảy ra:
Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã,
Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly,
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả
Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi.
Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly,
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả
Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi.
Trong văn chương, người kỵ mã thường là hình tượng của hiệp
sĩ, của chiến binh. Ở đây chàng kỵ mã đẹp làm sao! Đẹp ở chiếc áo dát đầy
trăng, đẹp ở tiếng gọi đò hối hả như chàng đang mang một trong trách trên người
nên cần qua sông gấp, đẹp ở chổ sự nôn nóng cũng đầy chất thơ: “Sợ trăng vàng
rơi khuất lối chưa đi”. Bốn câu thơ cho ta nhìn hình ảnh chàng ky mã lồng lộng
dưới trăng và chất thơ hiển hiện trên áo, trong âm thanh tiếng gọi đò và cả
trên con đường bên bờ kia của bến My Lăng. Tiếng gọi đò hối hả làm cho cảnh
đang tỉnh thành động. Tiếng động làm cho bức tranh sống, và sự sống vọng trong
bức tranh tỉnh làm cho bức tranh hóa rộng ra, mênh mông và xa vắng.
Qua khổ thơ thứ năm tác giả để nghịch cảnh xảy ra, một người
ngủ say và một người cứ goi đò trong đêm vắng:
Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách,
Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng,
Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách,
Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng.
Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng,
Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách,
Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng.
Khổ thơ nầy cho ta liên nghĩ đến điều gì? Liên nghĩ đến vận
mệnh. Vận mệnh của một cuộc gặp. vận mệnh của một đời người, vận mênh của quốc
gia không tuy thuộc vào ta, có khi tùy thuộc vào phút giây nào đó. Bài thơ
không cho ta biết hai người có liên quan nhau không nhưng bài thơ cũng cho ta
đoán định đây là hai con người nghĩa khí. Một người có học, canh cánh bên lòng
nổi u uẩn. Một người đang mang trọng trách
trong mình. Nếu họ gặp nhau và đưa nhau qua đò biết đâu sẽ làm việc lớn,
và chuyến đò kia sẽ là chuyến đò định mệnh. Vì họ không gặp nhau, vì định mệnh
không cho họ hội ngộ nên ông lái đò phải:
Bến My Lăng còn lạnh, bến My Lăng
Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng.
Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng.
Như vậy, người khách kia đi đâu không biết nhưng ông lái đò
đã phí cả thơi gian, phí đi kinh sử, mất đi chí lớn, u uất nép mình chèo đò bao
năm trên bến My lăng để đợi một người khách sang sông, người khách sẽ làm cuộc
đời ông thay đổi. Đó là nhân vật nào ta đâu biết. Một tri kỷ? một đồng chí? Một
lảnh tụ chăng? chứ dứt khoát không phải chỉ là một chàng kỵ mã bình thường.
“Bến My Lăng” của Yến Lan có thể cho là một bản anh hùng
ca, bi hùng ca hay là một bài thơ lảng mạn tuyệt vời. Ai hiểu sao tùy người ấy
nhưng đọc nó, ta nghĩ đến hàng ngàn bến sông trên đất Việt suốt chiều dài lịch
sử bị đô hộ của dân ta,hàng vạn con người lăn mình trong những đêm trăng, qua
sông vì việc nước và hàng vạn nhân tài dấu mình đâu đó, chờ ngày đem tài trí
phụng sự quê hương. “ Bến My lăng” rất đẹp, đẹp về cảnh, đẹp về người và đẹp về
chí lớn gởi trong thơ./.
Châu Thạch
No comments:
Post a Comment