Hoa sứ trắng
Phần
II
CHUYỆN
TÌNH
SƠ
LƯỢC CHUYỆN TÌNH VÙNG U MINH
Đây là bài thơ kể lại chuyện tình vùng U Minh nam
bộ quê tôi, được gợi hứng từ truyện "Hương Rừng" nổi tiếng của
nhà văn Sơn Nam. Xin tóm tắt chuyện như sau:
Di dân từ ngũ Quảng vào lập nghiệp vùng rừng U Minh.
Ông Hương giáo có một người con gái duy nhất, xinh đẹp mà ông rất thương yêu
tên Hoàng Mai. Khi Hoàng Mai đến tuổi trăng tròn, hỡi ơi ông phát hiện nàng bị
bệnh nan y: Cùi (bệnh hủi hay bệnh
Hansen)
Tìm trong gia phả thấy có ghi: - Luyện thuốc bằng
"ngọc" ong mật có thể chữa bệnh cùi. Ông bèn thuê một chàng trai trẻ,
làm nghề bắt ong mật đi tìm "ngọc" để ông luyện thuốc cho con gái
yêu. Ông Hương giáo mời chàng trai ở luôn trong nhà cho có bạn. Ngày đêm, ông
chong hàng chục ngọn nến bạch lạp chung quanh mớ “ngọc” để luyện, hy vọng rằng
khi đúng một ngàn ngày, nó sẽ trị được bịnh nan y của Hoàng Mai.
Một hôm tại nhà ông Hương giáo, chàng trai gặp nàng,
người con gái mỏng mảnh, liêu trai đứng tựa cây sứ cùi, mặt cạnh bên
những đóa hoa trẳng nhìn chàng với ánh mắt đầy ân tình. Lòng đầy yêu thương,
chàng đến đứng cạnh Hoàng Mai xin được cầm tay nàng.
[-
Anh nắm cái chéo tay áo này, em cũng đủ vui rồi.
Cảm
đông làm sao!...
Và
ngạc nhiên làm sao, một mùi hôi hám từ trong tay áo bay ra khi níu cái chéo tay áo của người đẹp. Tư Lập
thấy rõ ràng bên trong, ngón tay của nàng rụng mất hồi nào, chỉ có năm cuộn vải
nhỏ vấn khéo léo thay thế.
Hôm
sau, chàng trai viện cớ ra đi lúc mùa
bông tràm nở trắng rực. Anh không thèm làm nghề ăn ong nữa, về ở Long Xuyên
...]
(Hương Rừng -
Sơn Nam)
Nhưng hương rừng có ma lực quyến rũ, lúc mới đến thì
vui, ở lâu lại sanh buồn; nhưng xa cách lâu ngày thì đâm ra nhớ không nguôi,
không trở lại thì không được. Ôi đẹp quá mùa bông tràm nở trắng rực, cảnh rừng
tràm lúc ong "đi bông" *. Anh lại trở về.
Khi phát hiện anh về, ông Hương giáo nhắn mời anh thăm
Hoàng Mai. Anh ăn ong hứa, nhưng giữa đêm chàng ta xuôi dòng sông trốn mất.
........
(*)
Đi bông: Ong bay từng đàn tìm từng nụ hoa (bông) lấy mật. Đi bông là
tiếng riêng của những người làm nghề bắt ong.
Và đây là đoạn cuối của "Chuyện Tình Vùng U
Minh":
[...
Trên thềm nhà, trong bóng mát, hình dáng của Hoàng Mai với đôi mắt và mớ tóc
trùm kín trong chiếc khăn. Chiếc tay áo của nàng lòng thòng che khuất mấy ngón
tay, từ từ nâng lên như tiễn đưa một hình bóng ... ]
(Hương Rừng - Sơn Nam)
@. Cảm thương người con gái, Nguyên Lạc xin đổi chữ
CÙI bằng chữ MẪU ĐƠN (nôm na: Mẹ thằng cùi)
Xin được trích đoạn truyện ngắn nổi tiếng của
nhà văn Sơn Nam để giải thích rõ về chữ Mẫu đơn/ Mẹ thằng cùi:
[...
THAI ĐỐ TRONG DỊP TẾ LỄ KỲ YÊN
Thời
xưa, ở Nam Bộ, dịp tế lễ Kỳ Yên (cầu an lành) thường bày ra đấu xảo bánh khéo
nhất, đấu xảo mâm xôi ngon nhất, ráo nhất. Lại chưng bài vài sản phẩm tượng
trưng cho sự bội thu: củ khoai mì nặng cân ít thấy; trái bí rợ to đến mức kỳ dị;
con trăn, con rùa to, khó gặp. Nhưng vui nhất có lẽ là "Thai đố ", đã
thu hút mọi giới. [Thai đố (quiz): Đố vui có thưởng]
Chủ trì là một ông kỳ lão đầu bịt khăn đỏ, ngồi ghế,
giữa sân, bên cạnh là thúng đầy cam, quít, bưởi (dùng làm vật thưởng). Trước mặt
ông là mõ và thanh la, với cây dùi.
Dùng cây dùi gõ vào mõ "cốc, cốc..." khi
đoán câu đố sai; gõ vào thanh la nhẹ "beng" khi đoán gần đúng; gõ mạnh
và liên hồi thanh la "beng beng beng" để xác nhận đoán đúng và trúng
giải.
Thoạt đầu, ra những câu Thai dễ, thí dụ như:
Ví
dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu
tre lắt lẻo gập ghình khó đi.
-
Xuất bỉnh (tên một thứ bánh).
Trẻ 1 hô lớn: "bánh ướt". Ngụ ý cầu khó đi,
có thể té, quần áo ướt mem. Vì gần đúng, ông kỳ lão gõ một tiếng "beng"
vào cái phèng la.
Cậu 2 đáp là "bánh tét". Ông kỳ lão gõ một
tiếng "cốc", ngụ ý sai lời giải.
Rốt cuộc, một cậu đáp to : "Cái bánh bò"!.
Tiếng phèng la đổ dồn, khá to, xác nhận cậu ta trúng giải. Cây cầu khó đi thì
phải bò, khom lưng.
Và đây là câu đố mà chúng ta cần chú ý:
Kỳ lão ra câu Thai:
-
Mẹ thằng cùi!
Xuất
mộc (Tên một loài cây)
Vài người thử đáp giải, nhưng được lãnh tiếng "cốc,
cốc", hoặc tiếng "beng" thật nhỏ.
Rốt cuộc, ông kỳ lão ra Thai tự giải đáp:
-
Mẹ là mẫu theo nghĩa chữ Hán.
Đơn
là bịnh phong, người nổi đơn, da thịt sưng lên, sần sùi, gọi là bịnh cùi.
Vậy
"Mẹ thằng cùi" là "bông mẫu đơn"! (hoa mẫu đơn)...]
(Thuần Phong Mỹ
Tục Việt Nam - Sơn Nam)
Giờ mời các bạn đi vào bài thơ của tôi:
CHUYỆN
TÌNH VÙNG U MINH
I. ANH HÙNG LỠ VẬN
U
Minh tràm đước, cóc kèn (*)
Anh
hùng lỡ vận vào rừng bắt ong
Bắt
sao trúng phải nỗi buồn
Cảm
thương phận bạc
Lệ
tuôn lưng tròng
Dõi
theo con nước lớn ròng
Bỏ
đi trốn bậu
mà
lòng xốn xang
Nước
mắt sao cứ chảy hai hàng
Chèo
ghe lướt tới,
mà
lòng quay lui!
Rạch
sông muôn nẻo ngược xuôi
Cố
quên nẻo ấy
Dáng
người bên hoa
Mắt
xưa giờ chắc lệ nhòa
Gặp
nhau chi hở?
Bậu
qua phải sầu!
II. "MẪU ĐƠN" HOÀNG MAI
Bên
sông tựa nhánh bần xiêu
Lặng
thinh đêm lạnh
đìu
hiu bên trời
Sương
rơi thấm lạnh vai người
Vạc
kêu tiếng khổ,
buồn
rơi đoạn lòng
Mắt
ơi!
Thôi.
chớ hoài trông
Làm
sao giữ được một dòng nước xuôi?
Về
thôi?
Thôi
hãy về thôi!
Trăm
năm. cũng vẫn một đời cô liêu!
Về
thôi!
Trời
ửng bóng nhiều
Ngàn
chim ríu rít
như
trêu lòng người
Về
thôi!
Người
chẳng đến rồi!
Gặp
chi?
Rồi
để cả đôi phải sầu
Hoa
xưa. nay có còn đâu
Còn
màu lá úa
Còn
đau tình này!
.............
Nguyên Lạc
(*) Cây cóc kèn: Derris trifoliata rất phổ biến trong
những vùng ngập mặn, rừng sác, rừng ngập mặn. là loại cây bò trườn, thuộc họ
Fabaceae.
.....................
@.Phụ lục cho toàn bài viết:
Huyền
Thọai Trận Mù U - Võ Hương An
Rừng
U Minh Ta không thấy em ( Nguyễn Văn Nho đàn và hát )
No comments:
Post a Comment