Hoàng
Yên Linh
Tết năm 1978 tôi trở về
sau tháng năm "học làm người mớI". Gia đình tôi vốn ở miền Trung sau
cuộc bể dâu lưu lạc vào tận vùng đất phương Nam sông nước.Tôi trở về với đời
thường, hành trang chỉ có tấm giấy ra trại với thân phận thầy chẳng ra thầy, thợ
chẳng ra thợ và đối mặt với cuộc sống gian nan tràn đầy nghi kỵ.
Tôi chỉ mới ngoài 20 tuổi, thời gian chưa đủ để thích nghi với cuộc sống mới.Tôi không thể tìm được bất cứ
một công việc gì với bản lý lịch tối thui như giàn bếp của mình... Cuối cùng rồi
tôi cũng có được một việc làm nơi vùng U Minh Thượng, nơi Miệt Thứ vốn chỉ có những
cánh đồng trải dài ngút mắt, những cánh rừng tràm xanh bất tận và nước chua phèn
quanh năm. Tôi làm cái nghề chăn vịt thuê. Một mình trên căn chòi lá cô quạnh
giữa chốn đồng không mông quạnh chỉ làm bạn với đàn vịt, với cảnh mây trời sông
nước nhưng dẫu sao vẫn còn một chút an ủi đó là yên tĩnh, không một ai biết đến, không
ai gây phiền toái cho cuộc sống. Chỉ đôi lúc người chủ ra thăm đàn vịt và những
lần cạn ly bên trời chiều loang ánh nắng rừng tràm. Có một lần cô con gái con
ông chủ mang lương thực ra, giữa chốn hoang vu, cô hồn nhiên ca những bài ca vọng
cổ. Tôi vốn không phải là người ưa thích vọng cổ nhưng không hiểu sao buổi chiều
đó có lẽ vì cảnh đời, vì khung cảnh buồn hiu hắt và cũng có lẽ với giọng ca vọng
cổ ngọt ngào của cô gái trẻ, tôi lại thấy câu vọng cổ rất dịu dàng và trở nên rất hay nên tôi đã khen thật lòng. Cô
gái nói với tôi "vậy là anh Tư nợ tui đó nghe, tui ca cho anh Tư nghe rồi
đó..." Và bỗng dưng cô hỏi tôi:
"Nghe ba nói anh Tư hồi xưa là thiếu úy phải không?" Tôi gật
đầu, cô gái nói tiếp: "Thì bữa ni cứ gọi là anh Tư thiếu úy để phân biệt với
các anh Tư khác..." "Đừng gọi
thế... Cô mà gọi vậy là người ta bắt tui đi nữa làm sao mà còn nghe cô ca vọng cổ." Tiếng cười cô vang vọng giữa khoảng không mênh mông theo chiếc xuồng khuất
dần trong nắng chiều mờ dần sau cánh rừng tràm...
Đã hơn 30 năm... Tôi chưa một
lần trở lại vùng đất đã một thời cưu mang đời tôi. Và món nợ ngày xưa với cô gái
U Minh Miệt Thứ tôi vẫn chưa trả được. Hình ảnh ngày xưa vẫn còn sống động trong
tôi. Bây giờ ở một nơi chốn xa xôi nào đó, cô gái đưa cơm ngày nào có còn nhớ đến
anh chàng chăn vịt ngày xưa và món nợ cô có còn nhớ. Với riêng tôi, dù cuộc sống
có đổi thay, tuổi đời có mòn gót bôn ba, tôi vẫn luôn tưởng tiếc tháng ngày xưa
cũ, của một thời tuy lắm gian nan nhưng cũng tràn đầy tình người phương Nam... Và
mong cô còn giữ món nợ đó để còn nhớ đến nơi vùng U Minh bát ngát hương tràm có
anh chàng người miền Trung phiêu bạt và những câu vọng cổ tràn đầy ân tình tha
thiết.
Bài thơ này xin gởi đến
người xưa như là trang trải món nợ năm nào.
Qua Miệt Thứ lạc vườn cau
Đong đưa cánh võng, qua cầu gió bay
Ngỡ mình lạc giữa cơn say
Câu ca thắm đượm tình ai - thuở nào
Không em tình cũng lao đao
Bến xưa đò gọi, nôn nao tình buồn
Sông chiều đã ngã hoàng hôn
Mà sao câu lý như hờn trách ai?
Tình đành thôi đã chia hai...
Theo người tận xứ Cà Mau có buồn
Có chàng chăn vịt lang thang
Nhớ câu vọng cổ, nhớ hàng cau xanh
Lời xưa... thôi đành dở dang...
Hoàng Yên Linh
No comments:
Post a Comment