![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgKfKzQGs094WIF4KwvfrQlRYVNzh-W_zZYwpnh0OJMITc03d3Rka2_c59pJdwA-PwKfsN0hgFDuLj2-QWokdDRtl-05eSMByaLWN1bvxPUEVglqhwp8_DbrztG4TOynslIdUI8n52Yak1U/s400/Ugno+Vn+-+Copy.jpg)
Tác giả Ugno.Vn
ĐẠP XE LÁ
Xe lá là nông cụ người nông dân vùng Trị - Thiên sử dụng trong việc đưa nước vào ruộng. Đạp xe lá từ lâu đời đã trở thành một nếp quen của nghề nông và việc đồng áng nơi đây.
Gọi là xe lá vì nước được kéo lên bằng những lá gầu mỏng, gắn kết mắt xích vào nhau, vận hành bằng động lực từ bàn chân đạp của người. Xe lá được đóng bằng loại gỗ tốt, dai và chắc. Thùng xe là một hình khối chữ nhật kín ván ba mặt, rỗng ruột, dài 7 thước ta (lọai xe 7) hay 6 thước ta (lọai xe 6) (1 thước ta dài 0,4 mét). Mặt dưới thùng xe là một tấm gỗ khá dày làm bệ đỡ. Hai tấm gỗ mỏng áp mặt sườn hai bên thùng chỉ cao ngang nửa các thanh gỗ sườn. Phần hở bên trên các thanh gỗ sườn kết khung lại, có thanh gỗ kèo ngang, gắn kết hai thanh sườn ở hai bên đối diện thành từng cặp song song. Một tấm ván mỏng, nhỏ gác trên các thanh kèo ngang làm ván trượt cho dây lá gầu. Lá gầu là một miếng gỗ hình chữ nhật, bề mặt vừa sít với tiết diện phần thùng xe kín 3 mặt gỗ. Lá gầu dày chừng hơn một phân tây, mặt dưới lá được bào mỏng dần từ giữa lá ra ngoài mép. Mép lá còn mỏng chỉ chừng 1 đến 2 ly. Phần dày nhỏ còn lại ở giữa, hình chữ nhật, đồng tâm với hình lá gầu, được khoét lỗ để gắn vào cái chốt lá gầu. Chốt này là một cây gỗ hình trụ vuông dài, phần trên cưa mỏng bớt để vừa lỗ khoét giữa lá gầu, phần dưới giữ nguyên, chêm cứng để giữ lá gầu khi kéo nước lên. Chốt lá gầu đầu dưới khoét ngàm, đầu trên cưa mộng để khi kết lại, mộng chốt lá này kết vào ngàm chốt lá kia thành chuỗi. Ngàm và mộng có khoan lổ tròn để khi mộng vào ngàm, tra ngạc chốt lại để giữ. Mỗi tấm lá gầu là một mắt xích trong chuỗi xích lá xe. Chiều dài chốt lá gầu được người thợ đóng xe tính toán kỹ để khi vòng xích lá xe ôm các thanh chống ở trục tiền và trục hậu, các thanh chống này chống vào đúng vị trí các ngàm lá gầu. Phần đầu thùng xe để trống, gọi là họng xe, là chỗ chuỗi lá xe lên đổ nước ra máng và vòng ngược, tiếp xúc với trục đạp (trục trước, trục tiền) để chuyển vòng xuống, lướt trên ván trượt. Phần cuối thùng xe là trục sau (trục hậu). Dây lá xe trượt xuống, ngàm đỡ vào chân chống trục sau, quay xuống múc nước, đổi chiều lên. Trục sau là một vòng xoay nan trái khế, 8 múi chống, gắn vào vị trí cố định cuối thùng xe. Phần thùng xe có gỗ kín ba mặt, nơi sợi xích lá xe đi lên là ống nước do những lá gầu mang từ sông lên để đổ vào máng. Từ máng, nước chảy theo đường tàu dẫn vào ruộng.
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi3LNCMJNvxwHc_xLE-CY1kERJxlsvPTxxu2sa9ZlviBEk34l0qajUoBcZx6LRKZvTCndlk11FCJI5qOrjxLsWMSabNVuBV_nOV3jmTLRoaubHA_ToJuyMfgYJUbZhr_ZTZ_O1-3oQYjGJj/s400/Xe+%25C4%2591%25E1%25BA%25A1p+m%25C6%25B0%25E1%25BB%259Bc.jpg)
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgvS185dbew-GxHM1rzAOOdRPRaW7E5Lq_Ga4FWG3QqOnp60z2rWdyENmZ1roO2F5dR4e9SP0nJjPPiHRQ1R-WcY5YzuBZmYCQhM7ivIa5BNZhBZ_iPW7n_r88X51Nwnt26i6wOiidXIYGS/s400/Xe+%25C4%2591%25E1%25BA%25A1p+n%25C6%25B0%25E1%25BB%259Bc.jpg)
Giá xe là việc quen tay mới làm được. Phải tính sao đặt xe xuống là phần cuối thùng xe chìm vào nước vừa đủ để lá gầu múc đầy nước. Không sâu quá, đạp nặng. Không cạn quá, thiếu nước. Phần họng xe kê vừa vào máng để nước ra không hao, không chảy lui. Trục trước và thùng xe khoảng cách thế nào để vòng xích lá xe không căng quá hay dùn quá. Đặt xe thế nào để vòng quay khỏi lẹm, lá gầu cọ vào một bên thùng xe, đạp nặng, còn dễ làm vỡ lá gầu. Vòng dây gầu 32 lá (loại xe 7) hay 28 lá (loại xe 6), nhưng mỗi lần đi đạp phải mang theo dự phòng vài lá để thay những lá gầu bị vỡ giữa chừng. Việc này ít xảy ra nhưng giá xe vụng thì cũng dễ mắc phải
Ở những cánh đồng lớn, ruộng nhiều đám, nhiều chủ, các chủ ruộng chung xe, chung người cùng đạp. Máng nước trước các họng xe nhận nước chung từ các xe đổ vào để chảy ra cùng một đường tàu vào ruộng. Tùy ruộng cao hay thấp so với mặt sông, mặt hói mà có một, hai hay ba đợt xe (tầng, bậc, thớt). Xe đợt dưới đổ nước vào máng giữa. Xe đợt giữa múc nước từ máng này đổ lên máng trên. Xe đợt trên múc nước từ máng trên này chuyển lên máng trên cùng… để ra đường tàu, chảy vào ruộng. Đạp xe lá ngược chiều chân với việc đi xe đạp. Người đi xe đạp ấn chân vào bàn đạp (pédale) về phía trước để quay xích kéo bánh xe. Người đạp xe lá chọi đầu mấy ngón chân vào vồ đạp về phía sau để kéo dây lá xe mang nước từ sông lên đổ vào máng. Chân này thả vồ dưới thì chân kia chọi bắt vồ trên. Động tác này rất nhanh mỏi chân. Không quen thì chỉ vài chục chọi là chân cứng đơ, trái chân đau điếng, không sao tiếp tục được nữa. Thế mà người quen đạp ngồi hàng giờ, chân đạp, miệng hò nghêu ngao, mắt liếc quanh nhìn mấy o thôn nữ trên đê, hò lơ chọc nghẹo:
- Đạp xe nước chảy qua đồng
Hỏi thăm o nớ có chồng hay chưa ?
Gặp o này cũng không phải tay vừa, đáp ngay:
- Có chồng năm xửa năm xưa
Năm ni chồng bỏ như chưa có chồng.
O chẳng chịu thua, còn thách lại:
- Em nghe anh làm ruộng đã lâu. Hỏi anh chiếc xe anh đạp nước hai trục, dây gầu mấy lá. Lá mô chạy đầu anh ơi?
- Trên chống trục tiền, dưới đỡ trục hậu, chính giữa dây lá xe gầu. Xe anh đạp ba mươi hai lá. Lá mô em nghiêng mình chốt ngạc là lá xe đầu em ơi.
O kia đỏ mặt, ngúng nguẩy vài tiếng :“Đồ dị hợm!” nhưng rồi cũng lẹ làng xuống máng nước trước xe, bụm hai lòng bàn tay, cúi mình tát mạnh những vốc nước vào các vồ xe, cười khanh khách. O lại còn tát vổng lên vài vốc, ướt cả người mấy chàng. Mấy chàng đạp xe mát chân, ướt vồ dễ đạp, hô hố cười theo. Hò đối đáp nhau là vậy, nhưng anh chị, ai cũng biết lá gầu xe khi đã tra ngàm, chốt ngạc dính chặt nhau rồi thì làm gì có lá đầu, lá cuối; lá này tiếp lá kia, lá nào cũng như nhau thôi. Nông thôn không có lời cám ơn, chỉ có “bà lơn” chọc ghẹo rồi nhìn nhau cười mà cũng có khi nên chuyện.
Đồng ruộng làng mênh mông được thiết kế chia theo từng đạt cùng độ cao. Mỗi đạt có nhiều thửa ruộng ngăn nhau bằng những dường ruộng nhỏ. Dài theo mỗi đạt là bờ đạt rộng hơn, có đường tàu men theo để dẫn nước vào từng thửa. Trâu làng đã quen bờ đạt chỉ ăn cỏ, không ăn vụng lá lúa. Mỗi khi chú trâu ngỏng đầu nhai cỏ, mắt nhìn vào đám ruộng xanh rì những đọt lúa non thèm thuồng thì chú bé ngồi trên lưng trâu chỉ “khịt, khịt” vài tiếng là trâu lại cúi đầu ngoan ngoãn bứt cỏ rào rào. Nắng to, gió nam nhiều, lúa xanh tốt thì nước cũng mau khô. Cách ngày phải đạp lại. Trời ít nắng thì cũng cách hai ngày. Mùa trái (vụ chiêm) ngắn ngày, chỉ non 3 tháng từ tháng Năm đến tháng Bảy Âm lịch. Đây là thời kỳ nắng hạn cao điểm. Nếu không có mưa rào thì vụ này cũng mấy chục lần đạp nuớc. Khi lúa đã ngậm sữa đến vàng bông, phải hãm nước từ từ để đến khi gặt, đất ruộng khô nước, cứng chân. Mùa trái vất vả hơn mùa mùa từ việc đạp nước, bón phân, nhổ cỏ nhưng bù lại năng suất lúa gấp đôi, gấp ba vụ mùa. Đây là vụ chính của nông thôn Trị - Thiên ngày ấy. Những giống lúa chùm, hẻo trắng, hẻo rằn, nếp đinh, nếp cái một thời đã là những thứ“gạo ruộng” đặc trưng của vùng đồng quê miền Trung ấy. Chỉ lo những năm lụt sớm “Tháng bảy nước nhảy lên bờ” thì lúa phải gặt non, đã vất vả lại hao hụt nhiều.
Xe lá đạp nước ít thấy ở những nơi khác và không xuất hiện nhiều trong văn chương như hình ảnh gàu dai, gàu sòng tát nước. Trong tư liệu hình ảnh Bác Hồ, có hình Bác về thăm một vùng lúa và ngồi trên một giàn xe đạp nước. Người viết bài này không biết đó là vùng quê nào nhưng nghĩ đó là một tư liệu quí trong bảo tàng sản xuất nông nghiệp trồng lúa. Hình ảnh “Hỡi cô tát nước bên đàng. Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi” thi vị hóa cảnh tát nước đêm trăng ở nông thôn. Đạp xe lá dưới trăng cũng là hình ảnh thường gặp ở nông thôn miền Trị - Thiên. Có những chân ruộng gần nước, cạnh bến sông, bên đường xóm, một đôi vợ chồng tranh thủ đạp nước đêm cho ruộng nhà. Mát trời, tình tứ dưới nước trên trăng, thỉnh thoảng vang lên vài điệu hò quê hương thoảng theo làn gió nhẹ… Cảnh quê hương thanh bình ấy dù còn hay mất vẫn ghi mãi dấu ấn trong lòng người quê đi xa để nhớ về.
Từ những năm cuối thập niên 50 của thế kỷ trước, máy nước, máy gạo (máy xay xác) về làng, tiếp đến là máy cày,… mở đầu cho quá trình cơ giới hóa nông nghiệp. Người nông dân nơi đây dần dần thay đổi phương thức canh tác. Sinh hoạt vùng nông thôn nông nghiệp cũng thay đổi theo. Cái xe đạp nước, cái giần, cái sàng, cái xay, cái cối, cái cày, cái bừa, con trâu… trở nên xa lạ với người dân. Chỉ mới hơn 50 năm mà thế hệ người nông dân mới ngày nay, có người không biết gì về những nông cụ, công cụ lao động đó. Chiến tranh tàn phá, muốn kiếm lại một vài hiện vật nguyên vẹn cho công tác bảo tàng, chắc cũng không phải dễ dàng.
Ugno.Vn
No comments:
Post a Comment