Tác giả Lâm Bích Thủy
MỘT THỜI
ĐỂ BIẾT
Đêm nay lạnh, ngồi
trong căn hộ của chung cư cao tầng mà gió vẫn táp vào mặt; những cơn
gió như vừa chui ra từ những tảng băng; từng cơn, từng cơn thấm vào da thịt.
Không sao ngủ được. Bao nhiêu ý nghĩ, bao nhiêu hình ảnh dập dờn xô đẩy nhau
trong đầu óc. Khi thì quấn quýt ràng buộc lẫn nhau như một búi tơ vò. Khi thì
nối đuôi nhau thành một chuổi dài như những năm tháng đã trôi qua. Những
ý nghĩ đó, những hình ảnh đó có lúc dịu ngọt, thơm mát như được ướp bằng phấn
hoa và mật ong. Nhưng có lúc như có trăm ngàn mảnh gương vụn vỡ, lấp lánh mà
buốc đau, tàn nhẫn…
Ai cũng có một
thời để nhớ. Mà thời gian thì thật vô tư song cũng thật tàn nhẫn! Nó cứ trôi
từ từ, đều đặn không phút giây dừng lại. Cuộc sống thì đổi thay theo tạo hóa lòng
người. Bao nhiêu vun xới, bao nhiêu đắp bồi, bao nhiêu cay đắng ngậm ngùi
luyến tiếc.
Nhiều lúc tôi
hình dung cuộc sống như miếng thạch cao. Thạch cao thì mềm mại còn thời gian
là nhà điêu khắc. Mũi dao sắc lạnh nhưng đầy nghệ thuật của thời gian đã ghi
lại tất cả, rất trung thành, rất chỉnh chu thương yêu nhưng cũng rất bạo tàn
tất cả quá khứ mỗi người.
|
|
Tốt nghiệp Phổ thông, với bao hy vọng, ước mơ mãnh
liệt về một tương lai tươi sáng. Trong niềm phơi phới của tuổi trẻ; bạn thân
rủ tôi nộp đơn vào Trường Đại
học Ngoại Thương-Ngoại giao. Song le,
bạn được nhận, vì cha là giám đốc một cơ quan của ngành. Còn tôi, con một thi sĩ, đã nhận giấy báo của
Trường Đại học Nông nghiệp.
Cầm mảnh giấy nhỏ mà lòng tôi thì miên man nỗi buồn..! Nước mắt rưng trào! Tôi không hiểu tại sao ?! Xét về gia phả bốn đời, nhà tôi chưa có ai làm nông; dáng dấp thì bé nhỏ, còi cọc, chỉ nặng có 35 cân. Đặt biệt, tôi là con cán bộ Miền Nam tập kết, thuộc diện ưu tiên số 1 chọn ngành, nghề hợp với sức khỏe, năng lực, nguyện vọng mà Bác, Đảng đã chủ trương để sau này về phục vụ cho
quê hương miền Nam.
Lúc bấy
giờ, có câu “Nhất Y; nhì Dược; tạm được Bách khoa,
Nông nghiệp bỏ qua, Nông lâm cút thẳng”. Tôi đâu biết những nơi Nhất, Nhì đó, làm sao có chỗ dành cho đôi chân bé nhỏ con của một nhà thơ thời nhân văn giai phẩm chen vào!!!
Đưa thư cho ba tôi xem. Ý mách để ông tìm cách giải thoát cho. Nào ngờ, xem xong, ông trầm
tư, rồi khuyên: “Thôi con! được ngựa không nên mừng, mất ngựa không nên
tiếc, biết đâu ở lĩnh vực này con sẽ là Nhà phát minh, hay Anh Hùng Lao Động
thì sao?.” Tôi đâu biết
với ông sao giải
thoát được cho tôi! Ông chỉ là một cán bộ bình
thường, không chức sắc, họ hàng không ai làm lớn. Dẫu vậy, trong ông luôn tin, rằng các con cũng có một tương lai rạng rỡ để vươn tới!..
Đến hẹn, tay xách chiếc va-li nặng
trịch, to tướng lệch hẳn sang bên phải, tay trái cầm chiếc thau men Trung
Quốc, lẻ loi trên con đường vào Trâu Quì (huyện Gia Lâm) để tựu trường. Chân tôi bước mà nước mắt chảy dài trên má. Vừa đi tôi vừa oán giận số phận, oán cha: “giá
cha có chút địa vị trong xã hội thì con đâu phải thế này!” Song triết lý “được ngựa
không mừng, mất ngựa không tiếc” cứ lầm lủi đi vào trong tâm trí tôi. Nhưng càng dấn tới, tôi càng thấy như mình
đang bước vào chiếc sừng trâu khổng lồ không có lối ra.
Và rồi, cuộc
đời con của nhà thơ làm cô sinh viên Nông nghiệp bắt đầu từ đó! Tôi là một trong số 35 học sinh từ các Trường Đại học Dược, y Khoa, Xây dựng, Ngoại thương v.v.. thải
ra để bù vào chỉ tiêu còn thiếu của Trường Đại học Nông Nghiệp I - khóa 10 (từ 1965->1969). Khi không còn em nào đến, Nhà trường tiếp tục đưa chúng tôi sơ tán lên
một bản làng của dân tộc Mường, Nùng tên là Đổng Bán thuộc tỉnh Cao Bằng.
Từ Đổng Bán, đi hơn 10km nữa là đến chợ Trùng Khánh - Trung Quốc.
Tôi được phân vào Khoa Chăn nuôi - Thú y. Khoa có 2 lớp học chuyên ngành Chăn nuôi; 1
lớp chuyên ngành Thú Y. Tôi học về Chăn nuôi. Lớp có 34 nam và 13 nữ; chịu sự quản lý của 2 nam và 1 nữ đảng viên. Hai nam được cơ
quan cử đi học; gọi là Chuyên tu. Anh Nguyễn Qúynh - lớp Trưởng, kiêm Bí thư Chi bộ; quê Thái Bình, người tầm thước, nước da xạm, mặt bự, sần sùi đầy mụn trứng cá. Anh và anh Nguyễn Văn Thịnh - lớp phó, phụ trách tư tưởng, đạo đức.
Quê anh Thịnh ở Bắc Ninh nên hát quan họ nghe ngọt lịm. Anh
sở hữu trên khuôn mặt chưa hẳn chữ điền là đôi mắt lác, đôi môi mỏng dính, cái miệng nhỏ xíu như
con gái và chứa những chiếc răng cũng nhỏ
xíu như răng chuột. Còn nữ đảng viên độc nhất của khoa là Phạm Hoài Thu - Bí thư Chi Đoàn; miệng rộng, đôi mắt ướt, đen - người Nghệ An. Chính đôi mắt đen ấy đã làm hại đời cô, khiến cô có bầu trong thời gian thực tập; bị kỷ luật; hai năm sau mới được nhận Bằng Tốt nghiệp cùng khóa 12 với đàn em.
Ngoài ra, còn hai lớp phó không Đảng, anh người Thanh Hóa (em đồng hao với nhà văn Mai Ngọc Thanh) - phụ trách về lao động. Và anh Đỗ Văn Ninh, người Hà Nội – giáo viên cấp 2, chán nghề làm thầy, muốn làm kỹ sư Chăn nuôi nên tình nguyện nộp đơn vào
trường này. Anh, phụ trách học tập của lớp
Thời đó, Trưởng, Phó, Bí thư Chi
Bộ lớp quyền hành lớn lắm. Còn học lực thì bị các em phổ thông chê “Các bác chuyên tu vừa ngu vừa dốt”. Vì căm tức câu này mà hai vị rất
ghét các em sinh viên từ phổ thông lên. Với tôi, không hiểu vì sao, suốt khóa học bốn năm rưỡi, dù ở nơi sơ tán hay ở trường, đều “được” lãnh đạo lớp, nhất là anh phó lác “chăm sóc đặt
biệt từng
lời ăn tiếng nói”. Có vẻ như anh không muốn “rời xa”
tôi.
Tôi làm gì cũng bị chụp mũ là mang tư tưởng giai cấp Tiểu Tư Sản, quan hệ cục bộ không quần chúng chỉ chơi với
người
thành thị và những
bạn đẹp trai v.v…
Khổ nỗi, chính các bạn này khiến tôi bị hại. Này
nhé, ngay trong giờ học
họ ném thơ ca ngợi tôi. Ngày chủ nhật đi chợ Trùng Khánh tìm mua cho tôi nào túi xách, đèn pin, kim khâu, chỉ thêu, kẹo 4 màu v.v...
Mặc
dù những món quà này tôi đều chia sẻ với các bạn nữ nhưng vẫn bị chỉ trích.
Lúc
đầu mới lên, chúng tôi ở nhờ nhà dân. Vài
tháng sau, tự lên rừng
chặt cây, nứa,
cắt tranh làm lán ở. Việc này các bạn
hiểu và thông cảm tôi chân yếu tay mềm đã cán đáng dùm từ A đến Z. Vì vậy, dù không động tay tôi vẫn có thành quả và định mức chỉ tiêu lao động để
nộp... Tất cả những chi tiết ấy luôn đập
vào đôi mắt lác của anh Phó lớp.
Hồi đó, tóc tôi dài quá đầu gối, tết thành hai đuôi
sam. Biết tôi là con
thi sĩ, nên tôi trở thành nàng thơ của lớp “Mái tóc dài buông trên vai tròn trắng/Như dệt thêu nên ánh nắng của tình yêu...” Và khi đi thực tập xa, các bạn lo lắng sợ tôi khổ:
Em ơi dạ hương Lo em vất vả
Anh nhớ, anh thương Buồn
trong sớm chiều
Đôi vai nho nhỏ Chẳng được gần em
Tóc dài say hương Trăng sáng làm chi
Nắng ơi sao gắt Không lời hò hẹn
Mưa ơi sao nhiều Gió đưa làm gì…
Trong lớp bạn thì làm thơ, bạn thì viết truyện ngắn. Trong những câu
chuyện ngắn ấy, tôi là nhân vật
chính qua hình tượng của “Cô thiếu nữ Tờ-Ri-cô-za, hay Tô-nhi
A”- là những nhân vật trong các phim Liên Xô ở thập niên 60-70 thế kỷ XX.
Những
ngày đầu năm học; Nhà trường phát động phong trào “Ôn nghèo, kể khổ; Bình công, Báo công”. Có lẽ đây là chỉ tiêu bắt buộc em nào cũng phải bình công
báo công. Sinh viên nông thôn thì ối chuyện. Với tôi có gì để mà ôn nghèo; chỉ ngồi im nghe..” nên anh phó lác không tha cho tôi. Anh dằn
từng tiếng: “Cố mà nghĩ ra ít nhất
một chuyện chứ.” Qua chuyện cô sẽ nhận thức được tội ác của giai cấp địa
chủ cường hào bóc lột gia đình cô, làm đời cô khổ v.v... Tôi cố lục lại trong ký ức ở tuổi thơ để
tìm ra tội ác mà địa chủ đã bóc lột gia đình tôi. Nhưng ở thị trấn An
Nhơn-Bình Định vừa nhỏ lại đìu hiu, tôi lại chưa nghe từ địa chủ bao giờ.
Hình như quê tôi không có địa chủ thì phải! Tôi nhớ có chi tiết như thế này:
Lúc còn ở miền Nam, gia
đình tôi thuộc dân nghèo thành thị; trong bữa ăn, má tôi thường gắp cho chị
em tôi, mỗi đứa một con tôm thẻ thật to, dặn phải ăn hết cả bữa chứ không
được ăn vả. Nhưng có tôm to để ăn dù cả bữa chỉ được một con, liệu có phải là
khổ không nhỉ? Khi bạn cùng tổ lần lượt
kể hết nỗi khổ do địa chủ gây ra cho gia đình, anh
phó dướn đôi mắt lác nhìn xoáy vào tôi - “Còn cô, sao mãi không phát biểu.
Tôi đành phân bua: “Anh ơi, thật
tình là nhà em không bị bóc lột. Còn em ra đi từ nhà cha mẹ mà cha
mẹ ai lại làm con khổ. Khi theo cha ra Bắc, em được Bác đưa vào trường Học Sinh miền Nam, sống và học ở Hải Phòng. Ở đó, Bác, Đảng nuôi, dạy em nên người và rồi bước thẳng vào trường Đại học này, thì làm gì có ai kịp làm đời
em khổ!” Vậy
mà anh vẫn chưa buông tha. Tôi biết được việc này là do một bạn
xem lén sổ ghi chép công tác hàng
ngày của anh, thấy tên họ đầy đủ của tôi với dấu (?) và hai chữ “chú ý” tô đậm!...”
Lúc này, chúng tôi đang sống cùng đồng bào Mường và Nùng. Nghĩa là phải thận trọng
trong mối quan hệ. Biết mình là đối tượng “được” quan tâm nên tôi luôn chú ý trong sinh hoạt, nhất là dân vận. Từ xa nhìn thấy bà con, tôi mỉm cười và cúi
đầu (chào). Tôi ngoan ngoãn nhận bất cứ việc gì, đi bất cứ nơi đâu lãnh đạo phân: cấy, gặt, đắp đường, đào mương, lên rừng chặt củi giúp dân v.v...Và âm thầm chịu đựng dã tâm độc địa của anh phó. Cụ thể nhất là anh biết tôi hay nổi mề đay phải kiên gió và nước. Nhưng anh lại chọn nơi nào có nước thì phân tôi làm, dù các bạn lớp phản ứng anh không mảy may động lòng.
Thế rồi, kết thúc đợt sơ tán. Lớp tổ chức họp kiểm điểm rút kinh
nghiệm. Hôm ấy, trước lớp, anh phó lác nhìn
tôi, vẻ cay nghiệt: - Nhìn chung thời gian sống cùng đồng bào dân tộc, lớp ta làm tốt công tác dân vận, riêng cô Lâm, bà con phản ảnh với chúng tôi là cô rất khinh người, gặp dân không chào, mắt
cứ ngước lên trời”. Nghe anh nói, tôi sửng sốt; bởi việc này tôi luôn ý thức rõ nhất. Tôi uất ức mà không dám
cãi lại. Nhưng đã có nhiều bạn nữ phản đối thay tôi:
“Anh nói sao chứ nó bao giờ cũng chào bà con trước cả chúng em. Nó là con
mau miệng nhất lớp ta mà anh.”
Chính hôm đó, lần
đầu tiên, tôi cảm nhận được sự bực tức
của anh lên cực điểm; vì ý đồ bôi nhọ tôi không thành.
Trong ảnh:
Phạm Hoài Thu ở bên
trái hàng phía sau.
Bích Thủy bên trái ở
hàng ngồi phía trước.
Cuối 1966, chúng tôi sơ tán về huyện Khoái Châu-Ninh-Giang. Tại đây, sinh viên ở nhờ nhà dân. Mỗi nhà có 3 đến 4
em. Đời sống, sinh hoạt của lớp như một xã
hội thu nhỏ. Anh phó lác lúc này càng cậy quyền, cậy thế, ức hiếp bọn trẻ chúng tôi. Ai làm
anh giận, anh báo cô Chủ nhiệm Khoa. Mà Cô này thì vô cùng khắc
nghiệt. Khắc
nghiệt từ khuôn mặt xương xương, dài như hai
quả ngô chắp lại; từ ánh mắt nhìn làm ai cũng sợ. Anh phó lác lại được cô tin dùng, khiến uy quyền
của anh càng thêm mạnh. Các em không dám làm anh giận. Anh mà giận thì cô chủ nhiệm
biết ngay, cái thân khó bề yên !
Trong lớp, có cậu tên Cỏn, người Thái Bình, lùn, mắt ti hí. Nhìn cậu người ta thấy thương thương. Cậu đang phấn đấu để được kết nạp Đảng. Áo cậu mặc, cái nào ít nhất cũng vài miếng vá. Không biết sau miếng vá, áo có rách thật không? Bởi, áo còn mới, tệ lắm cũng chỉ giặt qua vài lần là cùng. Cậu mặc áo vá để chứng minh mình thuộc giai cấp bần hàn trong xã hội. Đi lao động qua đèo, lội suối, cậu chịu khó xách dép, vác túi, cuốc, xẻng cho
lãnh đạo. Nhưng! dù cậu có chìu chuộng các
anh cỡ nào cũng không đỡ nỗi thành phần Phú nông của gia đình. Ai dám kết nạp
vào đảng người ở giai
cấp chỉ đứng sau địa chủ một nấc. May cho cậu là được vào Đại học chứ hồi đó,
con nhà địa chủ thì không có cửa đâu nhé!
Rồi, bỗng một hôm, tin Khoa cử cán bộ
về điều tra anh phó lác với tội ức hiếp sinh viên. Hình như ai đó cả gan gặp thầy Hiệu trưởng phản
ảnh việc này. Khoa cử cán bộ tuyên huấn xuống “nằm
vùng” theo dõi. Nhưng, chú lại chọn “nằm” ngay nhà anh phó lác “nằm” để
“điều tra”. Vì thế, trong
cuộc họp kiểm
điểm lần đầu, sinh viên nêu toàn ưu điểm cho anh. Chú cán bộ tuyên huấn về báo lại, thầy Hiệu
trưởng không chấp nhận, bắt họp lại lần nữa.
Với tôi qua bốn
năm học,
trong hoàn cảnh mà bạn thấy; làm sao tôi dám đòi hỏi gì
ở
đây? Anh ta ghép tội tôi rồi đổ cho cô Chủ nhiệm
Tôi đọc được ác ý của anh. Anh thật độc địa. Chỉ
còn nửa năm nữa là chia tay; vậy mà anh không tha cho tôi. Anh hiểm độc, cố tình làm cái bẫy hòng hại tôi. Anh luôn cho người theo dõi tình bạn của tôi và T, vì trong sổ anh ghi: (Lâm + T = tình bạn hơi quá mà tình yêu chưa thấy gì? cần theo dõi.) Ý
anh ở đây là muốn tôi
vác cái bụng bầu như
bí thư chi đoàn Phạm Hoài Thu!
Nhưng, “vỏ
quýt dày đã có móng tay nhọn”. Biết ý đồ của anh, tôi quyết không sập bẫy anh giăng sẵn. Dù
thương và ở gần trong tấc gang, nhưng tôi và T kiên quyết không thăm nhau. Cả hai đều chấp hành nội qui quỷ quái đó một cách nghiêm túc không thể nào nghiêm túc hơn.
Và, khi kết thúc đợt thực tập,
thầy giáo hướng dẫn làm Đề tài từng nghe anh báo cáo về tôi, đã đến tận nhà tôi
ở để thẩm tra - là nhà của bà Phó Chủ Nhiệm HTX: Không ngờ thầy chỉ nghe bà ca ngợi tinh thần làm việc, dân vận của
tôi và kết luận một câu khiến
thầy không ngờ đến:
- Tôi quí cô ấy như một nén hương.
Cuối cùng, anh phó lác đành chấp
nhận trước khi chia tay tôi mãi mãi bằng câu nhận
xét:
“Cô Lâm tuổi đời nhỏ nhưng tuổi xã hội thì cao” ./.
Lâm Bích Thủy
|
No comments:
Post a Comment