Khi anh lái xe ra khỏi
thành phố thì trời sập tối.
Không quen đường, anh
loanh quanh lạc mất nhiều vòng, dừng
lại trước một ngã tư
không biết chạy hướng nào. Nhác thấy
bên kia đường, cuối bãi đậu xe trước
khu shopping mall đã đóng cửa,
hai đứa bé trai ngồi trên cỏ gần vệ
đường. Một đứa bốn,
năm tuổi và đứa kia bảy, tám tuổi,
chắc là anh em. Khu vực này không hoàn toàn vắng, nhưng quanh chúng vào lúc đó không có ai cả, trời lại
sắp tối. Anh ngạc nhiên, muốn quay xe lại nhưng vì lạc
đường hoặc vì thói quen lười biếng, anh phóng hẳn
vào xa lộ, không quay lại được nữa.
Trăng lên sáng bạc ở chân trời, anh mãi ngắm, quên hẳn mọi thứ.
Sáng hôm sau, thức
dậy ở nhà, anh nhớ lại, băn khoăn. Cha mẹ
hai đứa trẻ là ai, ở đâu. Một người
mẹ lơ đễnh bận
đi mua sắm? Một người cha ghé trạm
đổ xăng, không để ý ở băng sau hai chú bé chui tọt ra ngoài. Hay một tai nạn bất
ngờ? Nghĩ, lan man đủ chuyện.
Anh nhớ
một buổi trưa chủ
nhật, nằm đọc sách lơ
mơ trên giường, gần cửa
sổ. Mưa rơi lác đác trên mái nhà lúc anh bắt đầu ngủ
thiếp. Mùi hương thoang thoảng làm anh tỉnh dậy. Không phải
mùi hoa hồng, mặc dù lúc đó là đầu mùa xuân. Mùi lạ bay trong gió, có lúc nhẹ, có lúc đậm đà, biến mất rồi
quay lại. Nằm mông lung nghĩ ngợi.
Hai chuyện
có vẻ chẳng liên quan gì đến nhau. Anh tự an ủi: trong đời
biết bao chuyện như thế,
tưởng chúng có liên hệ nhân quả này nọ nhưng
về sau chỉ là tình cờ.
Mùa hè năm nay anh về
quê, sau chín, mười năm góc
biển chân trời, lại tìm ra được
nó. Một buổi chiều đi dạo
với người bạn gái cũ trên con phố dọc
bờ sông. Cô bạn bỗng nhiên chậm
bước, ngẫm nghĩ, rồi đi tiếp. Anh nhìn cô tò mò. Cô trả lời: nhà này nấu
canh mướp ngọt mà không bỏ ruốc. Anh ngạc
nhiên, nhìn cô ngờ vực, cô vẫn như
ngày nào. Cô giải thích:
biết chứ anh.
Ruốc.
Trời ơi, đó là thứ thức ăn gì mà khiến
cô bạn của anh, một người thời
trẻ anh đã từng đem lòng yêu say mê, lấy làm quan tâm hơn cả mọi
chuyện, ví dụ như là chuyện
sức khỏe của anh gần
đây không được tốt lắm?
Anh nhớ
mẹ anh khi mới vào Nam lần đầu thăm con, bảo:
người Sài Gòn không biết nấu ăn. Bà than phiền:
họ nấu ăn mà không có ruốc. Tanh chết được. Anh nhớ
những ngày mưa lụt tháng mười,
nghỉ học, cùng các anh chị mang vợt ra sông, vớt
những con tép nhỏ. Đó có phải là thứ tép di cư
từ biển lên, người ta thường bắt để
làm ruốc không? Anh không
chắc, một mình ở chốn
tha hương, bạn bè không phải người cùng quê, anh chẳng
có ai để hỏi, bây giờ người ta gọi
là tham khảo ý kiến. Chị Tư,
một người đàn bà khoảng bốn mươi
tuổi, mỗi năm thường gánh ruốc từ biển
lên bán rong trong làng, có thể
trả lời câu hỏi ấy
của anh, nhưng biết tìm chị
ở đâu. Chị đi từ sáng sớm,
mặc chiếc áo dài màu đậu đỏ, gánh một
gánh kĩu kịt, trời mưa lâm thâm hay trời
nắng như đổ lửa,
chị vẫn mặc chiếc
áo dài. Chị bán khắp làng, nhưng dành thứ ruốc ngon nhất
dưới đáy thúng cho mẹ anh, người khách cuối cùng trong ngày. Đường xa, mẹ thường giữ
chị ở lại qua đêm, mời
chị ăn cơm tối. Đêm chị
ngủ trên chiếc chõng tre đặt gần cửa
sổ ngoài hiên, mặc dù trong nhà, có chỗ nằm dành cho chị,
nhưng chị ngại, khăng khăng không chịu vào nhà. Thế
là mẹ anh cũng mang gối ra nằm ngủ
ngoài hiên, tỉ tê trò
chuyện. Ở đó, những đêm trăng sáng, dưới giàn hoa thiên lý xanh thơm man mác, bọn trẻ được
chị kể cho nghe những chuyện cổ
tích đầu tiên trong đời.
Như thế ruốc thì hẳn
nhiên là có liên hệ với anh rồi, cô bạn
nhắc đến là phải, nhưng
canh mướp thì liên hệ gì? Anh không nhớ được.
Rồi
anh về nhà ở Canada, rồi một hôm lái xe qua Mỹ
và đi lạc đường. Hai đứa trẻ. Anh nhớ
ra rồi. Đó là một buổi sáng tinh mơ
đầu đời. Hôm ấy anh lên bốn
hay năm tuổi. Người ta có thể lưu giữ
ký ức vào lúc mấy tuổi? Chú bé và người
anh trai, lớn hơn hai tuổi, dẫn nhau qua đò ngang, lên tỉnh xem lễ
Phật Đản. Hồi ấy
chưa có cây cầu tre tay vịn do gia đình Phật tử bắc
tạm qua sông để bà con từ vùng quê đến xem chương trình văn nghệ trên bãi đất trống trước
mặt chùa Tỉnh hội phủ
bóng phượng vĩ trổ bông đỏ thắm.
Hai đứa trẻ lang thang giữa đám đông, tranh với những đứa
khác nhặt những cái nắp có nút điền điển của
chai bia con Cọp nhét đầy túi. Chơi mãi quên cả tối. Bên kia sông, phía nhà của chú, nắng chiều vừa
tắt, chuyến đò ngang cuối cùng ngừng đưa khách, người
lái đò đã gác mái chèo lên mạn
thuyền ì ọp sóng, kéo dây buộc vào bãi cát trắng, lững thững
đi lên quán rượu khuất sau bụi tre cuối
bến, gần làng Xuân An, trước mặt chùa Sư
Nữ.
Khi chúng nhận
ra mình là những kẻ sau cùng trên bãi cỏ thì đã quá muộn.
Hai đứa
trẻ sợ hãi ngơ ngác trên đường,
chạy từ góc phố này qua góc phố
khác, tìm đường về nhà, không dám hỏi đường, trong một
thành phố đã đến giờ lên đèn, xa lạ.
Bên hàng rào kẽm gai gần một trại
lính, một người lính mặc quân phục màu xanh bồng súng đứng gác trong im lặng. Dưới ngọn
đèn đường vàng vọt, cao vút, tiếng ve bắt đầu
hót, nghe khi như từ bên phải, khi như
từ bên trái, chộn rộn vang rền,
một cặp tình nhân đi đi lại lại. Người
thanh niên cao lớn tóc chải dầu bóng loáng, người
thiếu nữ nhỏ nhắn
để tóc dài đen mượt xuống khỏi
thắt lưng. Chị đi guốc
cao gót, nên trông có vẻ
nhún nhảy. Họ đi hết một
đoạn đường, rồi quay ngược
lại, và đi như thế đều
đặn nhiều lần, nhẹ
nhàng nhưng nghiêm nghị, không nói năng gì. Tiếng guốc gõ nhịp
đều đều. Khung cảnh kỳ lạ làm hai đứa
trẻ ngẩn người: một
thế giới xa lạ. Đi bộ
đau ở bắp chân, chúng kéo nhau vào cổng tam quan trước chùa. Đêm vào khuya, sân
chùa vắng lặng không bóng người, trên ngọn ngô đồng cao vút một
con chim đi ăn đêm về muộn kêu mấy tiếng
rồi im bặt. Chúng chui vào một góc tối trước
cổng chùa nằm ngủ. Chú bé mệt
quá thiếp đi một lúc nhưng lát sau tỉnh lại vì đói bụng.
Anh của chú bảo chú cầu nguyện.
Chú làm theo, rồi ngủ thiếp lần
nữa. Lại thức dậy
vì đói. Gió lạnh từ ngoài sông thổi vào. Một vật gì lành lạnh
hơn chạm vào chân. Chú ngồi lên: hai đồng tiền của
ai để rơi lấp lánh dưới
ánh trăng. Đồng tiền kẽm có in hình cây trúc. Hai đứa trẻ cầm
mấy đồng tiền chạy
qua quán tạp hóa bên góc
chùa. Người chủ quán càu nhàu vì mất ngủ, hé liếp
cửa lấy tiền rồi
bỏ vào tay chúng những viên kẹo bi tròn nhẵn đủ màu xanh đỏ.
Chú ngồi ăn kẹo, nhìn qua bên kia sông,
trăng đã treo một lưỡi liềm sáng bạc
trên rừng dương liễu đầu
làng. Lần đầu tiên chú biết cảm giác nhớ
nhà, xao xuyến, đau thắt cả ruột.
Căn nhà của chú nằm ngay dưới vầng trăng ấy,
tưởng chạm tay vào là được mà xa xôi quá. Từ đó về sau, khi đã lớn,
cảm giác bồn chồn không yên ấy
thỉnh thoảng lại trở
về. Tâm trạng tha hương.
Chờ đến sáng tinh mơ hai đứa trẻ
đi xuống bờ sông, lúc ấy còn sớm, chuyến
đò ngang sớm nhất cũng bắt đầu trễ
hơn. Dưới bến một
con thuyền có mui của dân chài lưới đi đánh cá đêm cắm sào trong sương mù buổi sáng từng lớp từng
lớp trôi đi. Chúng kéo
tay nhau xắn quần đùi lội ra. Mùi thơm
ngào ngạt xông lên từ mui thuyền. Mùi canh mướp mà mẹ chú thường
nấu những ngày nóng nực. Mùi mướp ngọt, mùi ruốc,
bay xa trong gió, khắp
xóm đều nghe. Một người đàn ông chắc
là chủ thuyền đang ngồi vá lưới ngẩng
đầu lên hỏi một câu gì đó rồi
khoát tay ra hiệu cho hai
đứa trèo lên. Ông ta chỉ tay vào cuối thuyền, một
đứa bé gái trạc bằng tuổi
chú hoặc lớn hơn chút đỉnh
thắt hai cái bím bằng dây cao su xanh đỏ đang ngồi bên một nồi
canh mướp bốc khói nghi ngút. Cô bé có vẻ lanh lợi, nhường
chỗ cho chúng, bưng cho mỗi đứa một
tô canh mướp nóng. Sau
này chú không có dịp nào
để quay lại cám ơn người
chủ thuyền và cô con gái. Nhiều năm trôi qua, mỗi khi nhớ lại mùi canh mướp
ngọt, mùi ruốc thơm trong gió, anh lại
nhớ đến cô bé, giờ này chắc đã có con, có cháu. Và nhớ người anh trai lớn
hơn hai tuổi. Một người
ngã xuống trên chiến trường, dòng máu trên ngực đã khô từ
lâu. Một người nay có lẽ trở thành một
người lái đò, hay một bà chủ tiệm,
hay đã chết trong chiến tranh, hay là một góa phụ lặn lội
giang hồ thân gái dặm trường?
Anh nhớ
vành trăng lưỡi liềm sáng bạc bên kia sông, nhớ chùa Tỉnh hội,
nhớ mùa Phật Đản, nhớ
cặp tình nhân đi đi lại lại bên hàng rào thép gai trại lính dưới
ánh đèn vàng vọt, nhớ hai đứa trẻ
lạc đường xa nhà đói bụng ngồi trên bậc
tam cấp trước cổng chùa. Anh nhớ
hai đứa trẻ khác ngồi trên bãi cỏ vệ đường
khi trời sập tối bên kia bãi đậu
xe sau một khu shopping
mall phồn hoa đô hội ở Mỹ.
Hai đứa trẻ và một người
đàn ông lái xe cùng lạc đường, không bao giờ có dịp gặp
lại nhau.
NGUYỄN
ĐỨC TÙNG
Damau.org
No comments:
Post a Comment