Mấy ngày này, tôi nhận
nhiều thư của một em học trò cũ đang ở Hà Nội. Em bảo thích Hà
Nội, có khi đang sống ở Hà Nội mà lại nhớ Hà Nội nữa. Tình cảm em
dành cho Hà Nội thật sâu sắc và mãnh liệt làm tôi nhớ bài thơ Hà
Nội cũ của Đinh Tấn Phước trong tập thơ “Gió mùa” mà bạn tặng đã
lâu.
có một Hà Nội rất cũ
như bờ đê
chiều Yên Phụ
lối mòn gót cỏ
gánh hàng hoa tan chợ đi
về
có một Hà Nội rất xưa
như là cổ tích
những mái đình cong võng
điệu thời gian
một Hà nội rêu phong
ven dòng sông Tô Lịch
ông đồ nho vẽ chữ
bán bên đường
có một Hà Nội mùa đông
những cây bàng đỏ bầm
chết rét
tiếng dương cầm lạnh ngắt
rơi từng giọt khói sương
có một Hà Nội rất thơ
như mùa thu và giọng nói
một Hà Nội cửa ô, một
Hà Nội ả đào
ba mươi sáu phố phường
bờ hồ liễu rủ…
anh vẫn yêu Hà Nội cũ
chưa cầu Thăng Long
không xe cộ ngợp trời
không nhà mái bằng
không chợ người khổ lụy…
khi Hà Nội còn trong anh…
rất trăng!
Tập thơ "Gió mùa" của Đinh
Tấn Phước do Nxb Hội nhà văn, Hà Nội xuất bản vào tháng 12 năm 2003.
Tập thơ có ba bài biểu lộ cảm xúc của tác giả về Hà Nội, đó là
“Hà Nội cũ”, “Thu Hà Nội” và “Hà Nội”, nhưng tôi thích nhất là “Hà
Nội cũ”, bởi tôi có cảm giác tác giả qua bài thơ này nói hộ lòng
tôi.
Ngay từ đầu, chỉ thoạt đọc tựa
đề “Hà Nội cũ”, tôi cũng cảm thức được cảm hứng sáng tạo của tác
giả. Xưa nay, nói đến cảm hứng sáng tác văn chương, người ta thường
khẳng định chắc nịch rằng, sáng tạo văn học là một cảm xúc hoài
niệm, hoài cổ. Có lẽ cũng không cần bàn cãi gì điều này vì cái
lí nó sờ sờ ra đấy. Ngoại trừ những tác phẩm khoa học giả tưởng,
còn tất cả mọi tác phẩm thuộc các thể tài văn học đều tái hiện –
tái tạo hiện thực cả. Cho nên, không phải ngẫu nhiên chút nào khi cụ
Nguyễn Du lại viết : “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Viết
là thể hiện tình cảm, bày tỏ thái độ của người tạo tác trước
hiện thực đang phơi mở trước mắt nhà thơ.
Nói cho cùng, sáng tác là nhớ lại những gì đã diễn ra trong
hiện thực qua cái nhìn của người cầm bút, rồi biểu hiện nó bằng
hình tượng với công cụ là ngôn từ nhằm gởi gắm một tình cảm thẩm
mĩ nào đó đến người đọc ở tương lai. Nhưng với Đinh Tấn Phước thì
có khác, đó là sự nhớ lại trong nhớ lại, đó là nỗi hoài nhớ được
bao bọc trong hồi ức tuổi xưa. Không thế, sao lại có tựa là Hà Nội
cũ!
Tôi nghĩ, tác giả cũng như tôi đã
có một Hà Nội cũ qua những tác phẩm của “Tự Lực văn đoàn”, qua thơ
ca lãng mạn, qua những bài hát mang màu sắc hoài niệm khắc khoải
của những người con Hà Nội đang sống ở miền Nam. Bởi chúng tôi cùng
thế hệ, được học dưới mái trường trung học những năm 60 của thế kỉ
XX và cùng đặt chân vào giảng đường đại học Huế năm 1971. Cho nên, khi
tác giả đến với Hà Nội của thời điểm hiện tại, tâm thức bỗng có
một Hà Nội xưa ùa về, chảy tràn thành thơ.
Bài thơ, với cảm xúc ấy nên mới có
cấu trúc đối lập một Hà Nội xưa và nay, một Hà Nội qua những trang
viết, qua những giai điệu lãng mạn với một Hà Nội hiện thực không
như là mơ. Và cũng vì thế mà cấu trúc đối lập ấy không cân đối
chút nào. Cảm xúc thơ nghiêng về Hà Nội xưa, Hà Nội của kí ức đẹp;
còn Hà Nội nay tác giả chỉ tái hiện qua một khổ thơ ngắn.
Qua những khổ thơ đầu, những vẻ đẹp
của Hà Nội xưa hiện hình cùng một kiểu lập ý : “có một Hà Nội
rất… như là…” và qua sự tăng tiến
của ngôn từ : “rất cũ”, “rất xưa” và “rất thơ”. Chính những phương
thức nghệ thuật này đã xếp bức màn thời gian lại cho ta chiêm ngưỡng
một Hà Nội đẹp như cổ tích, mang màu sắc cổ điển. Để rồi ta cảm
giác như lạc vào một mê cung Hà Nội thơ,
một Hà Nội của thi hứng, của cảm xúc trữ tình. Ta như bâng
khuâng giữa “chiều Yên Phụ”, bâng khuâng thả hồn theo : “lối mòn gót
cỏ – gánh hàng hoa tan chợ đì về”. Ta nghe hồn mình buông chùng mềm
mại theo “những mái đình cong võng điệu thời gian” soi bóng xuống dòng
Tô Lịch. Ta say mê ngắm nét bút “như phượng múa rồng bay” của ông đồ
nho đang “vẽ chữ bán bên đường”. Ta cũng thả hồn bay theo chiếc lá
vàng thu bên Hồ Tây liễu rủ và :
… giọng nói
một Hà Nội cửa ô, một
Hà Nội ả đào
ba mươi sáu phố phường
bờ hồ liễu rủ…
Hà Nội lung linh trong kí ức được
hình thành từ trang văn đã học đã đọc, từ ước mơ là thế.
Bên cạnh Hà Nội rất thơ lại chen
ngang một Hà Nội :
anh vẫn yêu Hà Nội cũ
chưa cầu Thăng Long
không xe cộ ngợp trời
không nhà mái bằng
không chợ người khổ lụy…
Khổ thơ khẳng định để phủ định.
“Anh vẫn yêu Hà Nội cũ” có nghĩa là anh không có một chút tình cảm
nào với Hà Nội thực tại, của thời hiện đại, của buổi kinh tế thị
trường. Nói như thế không có nghĩa là Hà Nội hiện đại không đẹp. Hà
Nội ngày nay vẫn có nét đẹp riêng, nhưng không thể thay thế được vẻ
đẹp đã làm tổ rất lâu trong kí ức
tác giả. Đọc khổ thơ này tôi càng thấy rõ cảm xúc của tôi qua tâm
tình của tác giả. Năm 1978, tôi lần đầu đến Hà Nội và sau đó trở
lại nhiều lần nữa, ngắn thì một tuần, dài thì một tháng. Tôi đã
ngỡ ngàng thấy một Hà Nội không trùng khít với Thăng Long trong những trang văn tôi đã
đọc, qua những giai điệu mượt mà tôi đã nghe. Những gì tôi chứng kiến
là một Hà Nội thời bao cấp, một Hà Nội thời kinh tế thị trường,
bùng nổ việc xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà chóp, chợ người đường
Giảng Võ,… Cho nên, dù tôi biết Hà Nội nay vẫn đẹp nhưng tôi vẫn đồng
điệu với những chữ “không”, chữ “chưa” trong khổ thơ. Và tôi vẫn giữ
mãi một lòng yêu Hà Nội cũ như Đinh Tấn Phước, khi bạn khép lại bài
thơ, cũng là chốt lại một thái độ, một cái nhìn nghệ thuật về Hà
Nội trong thơ:
khi Hà Nội còn trong anh…
rất trăng!
Câu thơ là một khổ thơ, nhưng không
tạo cảm giác chông chênh, ngược lại vẫn cân bằng bởi có sự thống
nhất tư tưởng, tình cảm của tác giả. Cho dù, thời gian có chảy trôi,
không gian có đổi dời, trong tâm hồn của tác giả vẫn luôn hằng hữu
một Hà Nội “rất trăng”.
Và đó cũng là một Hà Nội trong
tôi.
HD, 4-12-2011
No comments:
Post a Comment