Trước khi chuyển công tác vào Bà Rịa - Vũng Tàu, tôi
làm việc tại Quảng Trị ngót nghét mười lăm năm. Ở
mảnh đất nổi tiếng ấy, tôi thân quen hầu hết giới
văn nghệ sĩ và cánh báo chí. Nhưng với nhà thơ Nguyễn
Văn Trình, tôi chưa một lần gặp mặt, chỉ thỉnh thoảng
đọc anh trên tạp chí Cửa Việt và báo Quảng Trị.
Nhân Đoàn văn nghệ sĩ Quảng Trị gồm 15 người vào dự
Trại viết tại Nhà Sáng tác Vũng Tàu giữa tháng 9 năm
2023, tôi mới có dịp gặp nhà thơ Nguyễn Văn Trình. Giới
văn nghệ sĩ sống cởi mở, hướng ngoại cho tâm hồn
thoải mái. Đã không biết thì thôi, biết rồi kết thân
nhau ngay, nói cười hỉ hả, phơi hết ruột gan mình ra.
Vì vậy, tôi và nhà thơ gặp nhau bởi một chữ duyên,
khi tôi viết về tập thơ: “Thôi đành rong rêu”
của anh cũng bởi một chữ nợ. Duyên nợ ấy có gắn
kết suốt đời và mãi mãi hay không đều do duyên phận.
Đọc tập thơ: “Thôi đành rong rêu” của
nhà thơ Nguyễn Văn Trình, gồm 69 bài, mang nhiều chủ đề
phong phú, cấu tứ rõ ràng, xúc cảm dâng tràn: Thơ viết
về cha, về mẹ, về tình yêu, về các anh hùng liệt sĩ,
về cảnh sát biển, về bộ đội biên phòng, về người
lính thời bình, về dòng sông quê, về biển, về bốn
mùa, về nhiều loài hoa, về thế thái nhân tình, về mái
trường và học sinh thân yêu… Thơ anh đầy tâm trạng,
ngân rung theo từng cung bậc tình cảm.
Trước đó nhà thơ Nguyễn Văn Trình đã xuất bản 3 tập
thơ riêng: “Mây trắng bên trời ” Nxb.Thuận
Hóa, năm 2011; “Nắng chiêm bao” Nxb. Hội Nhà
văn, năm 2019; “Bóng chiều rơi” Nxb. Hội
Nhà văn, năm 2022; Và “Thôi đành rong rêu”
Nxb. Thuận Hóa, năm 2024 - Đây là tập thơ thứ tư của
anh. Nhà thơ Nguyễn Văn Trình vinh dự được nhận các
danh hiệu: Giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh, năm 2004; Kỷ
niệm chương vì sự nghiệp Giáo dục, năm 2016; Kỷ niệm
chương Mặt trận Tây Nguyên B3, Sư đoàn 10, Quân đoàn 3,
năm 2015; Giải C, giải thưởng sáng tạo Văn học - Nghệ
thuật tỉnh Quảng Trị, năm 2019 với tập thơ “ Nắng
chiêm bao”.
Nghề giáo được xã hội kính trọng, tôn vinh, được
ví: Như người làm vườn, như người đưa đò, như con
tằm rút ruột nhả ra tơ, như ngọn nến thắp sáng tri
thức, như người kỷ sư tâm hồn. Là thầy giáo dạy môn
Ngữ Văn sống có thủy có chung, nên thầy giáo Nguyễn
Văn Trình không quên viết thơ tặng những ngôi trường
Phổ thông trung học trên quê hương mình mà anh từng đứng
lớp, thể hiện sự tri ân. Tôi như tìm thấy bóng hình
mình trong đó, bởi vì tôi và anh có những điểm tương
đồng. Anh và tôi thời còn học cấp Ba dưới mái nhà
chung rộng lớn của tỉnh Bình Trị Thiên, đều có thơ
in báo. Nếu như tôi là thầy giáo dạy môn Ngữ Văn trước
khi đi bộ đội: “Tổ quốc dục, tôi bồng súng ra
đi/ Tháng năm biên cương ngút trời lửa đạn/ Đành xa
em thơ, xa trang giáo án/ Và vầng trăng thiếu nữ giữa
sân trường” (Thăm mái trường xưa) thì anh đi bộ
đội thuộc đơn vị C21 trực thuộc sư đoàn 10, Quân
đoàn 3, đóng quân ở tỉnh Bắc Thái cũ, án ngữ một
miền biên giới quan trọng của vùng Đông bắc Tổ quốc,
sau đó đơn vị chuyển vào Tây Nguyên, trước khi anh làm
thầy giáo dạy môn Ngữ Văn. Cả hai chúng tôi cùng cầm
súng đánh đuổi bọn quân bành trướng xâm lược, bảo
vệ từng tấc đất biên cương Tổ quốc. Và một điều
rất ngẫu nhiên là cả hai đều ở cùng con đường mang
tên của một danh sĩ thời Nguyễn, tôi ở số chẵn 66
đường Chu Mạnh Trinh, TP Vũng Tàu, còn nhà thơ Nguyễn
Văn Trình ở số lẻ 65B đường Chu Mạnh Trinh, TP Đông
Hà.
Các cấp học phổ thông đều học môn Tiếng Việt, học
sinh được khám phá cái hay của nhiều bài thơ, những
áng văn chương có giá trị về nội dung và nghệ thuật,
để nuôi dưỡng tâm hồn lành mạnh. Theo nhà phê bình
văn học Nga Belinxky: “Thơ trước hết là cuộc đời,
sau đó mới là nghệ thuật”. Vì vậy, trong tập thơ:
“Thôi đành rong rêu”, nhà
thơ Nguyễn Văn Trình với vai trò là người thầy giáo
giảng dạy môn Ngữ Văn, ngoài việc truyền thụ kiến
thức, tạo cảm hứng học Văn, khơi dậy niềm đam mê
văn chương, mở rộng tầm hiểu biết thế giới bao la,
rung cảm trước mọi hoàn cảnh của cuộc sống muôn màu.
Từ đó học sinh yêu môn Văn, yêu người dạy Văn, và
yêu cả nghề dạy Văn. Bên cạnh đó, thầy giáo dạy Văn
còn trang bị cho học sinh những kiến thức ứng xử, dạy
làm người có ích, chọn con đường đi đúng đắn, vì
văn học là nhân học. Nên thế mạnh trong thơ Nguyễn Văn
Trình viết về nghề dạy học, với những câu thơ nồng
nàn, da diết: “Tôi đã say và cháy hết mình/ Trên bục
giảng với từng con chữ/ …Tôi vẫn nhớ từng trang văn
trò viết/ Bài văn nào cần mực đỏ thầy phê”
(Triệu Phong ngày cũ còn đây). Thầy giáo dạy Văn dạt
dào cảm xúc truyền đạt kiến thức văn chương cho học
sinh. Còn nhà thơ tâm hồn bay bổng thăng hoa, sáng tác nên
những câu thơ có cánh. Nhưng một lúc nào đó cũng rất
chi li kiểm đếm các sự kiện nổi bật của ngành giáo
dục Quảng Trị diễn ra trong năm mươi năm, vượt qua bao
khó khăn để gặt hái thành công về mọi mặt: “Hôm
nay quả ngọt, bông sai/ Giáo dục Quảng Trị, hương nhài
thơm danh” (Trồng người trên đất lửa). Với tâm
hồn đa cảm của người thầy giáo làm thơ, trong một
chiều trở gió, anh thơ thẩn tìm về ngôi trường cũ
THPT Chế Lan Viên nhặt tìm kỷ niệm, bùi ngùi nhớ các
em học sinh thuở nào, nhớ bóng phượng, gốc bàng, ghế
đá, những giờ say sưa giảng bài, tưởng như còn mới
nguyên hôm qua: “Ngôi trường một thuở yêu thương/
Nhớ bao kỷ niệm còn vương tháng ngày” (Nơi chốn
neo hồn). Bao năm chia xa trường THPT Đông Hà, một ngày
trở lại thăm, lòng ngổn ngang “giữa trăm chiều
thương mến”: “Đây bục giảng nơi buồn vui tiết
học/ Giọng giảng bài vẫn thao thiết say mê” (Cổ
tích tâm hồn). Cả cuộc đời cần mẫn đưa “khách”
sang sông, người “lái đò” khả kính gặp lại người
“khách” đặc biệt ở mảnh đất phương Nam nắng ấm
trời trong Nguyễn Xuân Hùng, cựu học sinh THPT Đông Hà,
nay làm phó giám đốc một công ty trong khu công nghiệp
Phú Mỹ, thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Thầy trò gặp
nhau sau 27 năm trò ra trường, mừng vui khôn xiết: “Mùa
hạ về, thầy nhớ ngày em đi/ Rời Quảng Trị em vào nơi
Phú Mỹ”. Viết về cô giáo “cắm bản” ở vùng
sâu, khổ cực kể sao cho hết, hy sinh quyền lợi riêng để
mở mang tri thức cho các em: “Rưng rưng con đường đến
lớp/ Mến người gieo chữ vùng sâu” (Cô giáo vùng
sâu). Cũng đề tài này, ngày ấy tôi có bài thơ đăng
báo Quảng Trị: “…Em đi về phía thương, hướng
nhớ/ Bao đôi mắt đen đàn trẻ mong chờ/ Lớp học nhỏ
gối đầu con suối nhỏ/ Đêm một mình sóng sánh ánh
trăng mơ/ Đám học trò ghồ ghề tuổi tác/ Thích đi săn
hơn đến lớp học bài/ Bao cánh chữ như bầy chim bay
lạc/ Em gọi về gây giống tương lai” (Nơi xa mặt
trời mọc).
Nay tuổi ngoài “lục tuần” nhà thơ Nguyễn Văn Trình
vẫn nhớ như in hình ảnh người cha với công việc đồng
áng nặng nhọc, không kể nắng mưa làm ra hạt lúa, củ
khoai mong con ăn học nên người: “Bóng cha cày cấy
ngoài đồng/ Mình cha cặm cụi hết lòng vì con”
(Bóng cha). Hình ảnh người mẹ trong thơ anh thật cảm
động, vóc dáng mảnh mai nhưng gánh bao nỗi nhọc nhằn,
chăm sóc dạy dỗ con cái chu toàn: “Mẹ như thân liễu
mảnh mai/ Gánh bao khổ cực miệt mài nuôi con” (Mẹ).
Không có tỉnh thành nào nhiều nghĩa trang liệt sĩ như
Quảng Trị. Mộ phần các anh mênh mang được xếp ngay
hàng thẳng lối, như ngày ấy tuổi trẻ các anh háo hức
hành quân ra trận. Các anh yên nghỉ dưới bóng mát đồi
thông, có hoa sim tím biếc, có bông trang đỏ hồng, có
khói nhang thơm bảng lảng. Cúi đầu trước anh linh liệt
sĩ, nhà thơ ngậm ngùi tưởng nhớ bao đồng đội nằm
lại dọc dài biên giới Việt - Trung, anh chưa có dịp ra
thắp hương: “Nhớ anh, viếng mộ thắp hương/ Để
rơi dòng lệ, giọt sương đầm đìa” (Chiều nghĩa
trang). Người lính trực tiếp cầm súng chiến đấu bảo
vệ Tổ quốc hy sinh đành một nhẽ, nhưng giữa thời
bình không tiếng súng, người lính cũng anh dũng hy sinh
khi cứu dân trong cơn lũ quét điên cuồng, đất đá sạt
lở từ trên đồi cao ào ào vùi lấp nhà cửa: “Lính
thời bình giữa muôn vàn gian khó/ Nhiệm vụ nào rồi
cũng có hy sinh” (Người lính giữa thời bình). Viết
về đề tài người lính, anh ngợi ca bộ đội Biên
phòng, Cảnh sát biển, các chiến sĩ Hải quân nơi tiền
tiêu hải đảo xa xôi ngày đêm canh giữ từng tấc đất
biên cương, từng mét vuông biển đảo cho đất nước
vẹn toàn, như những bài thơ: “Sóng ngầm phía Trường
sa”, “Sắc tím vùng biên”, “Những tượng đài giữ
biển”, “Khát vọng người lính biển”…
Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, có bốn mùa
trong năm. Nhà thơ Nguyễn Văn Trình đều yêu bốn mùa,
bằng những câu thơ lột tả nét đẹp đặc trưng của
từng mùa: Mùa xuân ngàn hoa khoe sắc, chim hót líu lo, cánh
én chao liệng giữa trời quê yên ả: “Cuối chiều
cánh én bay mau/ Trời xuân chao liệng rũ nhau theo đàn”
(Xuân về nắng ấm). Mùa hạ nắng nóng oi bức, hoa phượng
đỏ cành, hoa cải vàng tươi, làm cho thi nhân chợt buồn
vì tạm xa bục giảng: “Hạ vàng giữa chốn hương
quê/ Cho thêm nhung nhớ, cho đê mê lòng” (Hạ vàng).
Mùa thu khí hậu mát mẻ, từng chùm quả lúc lỉu chín
vàng trên cây như mời gọi, trăng thu tròn vành vạnh treo
giữa trời quê, gieo vào tâm hồn nhà thơ một chút buồn
man mác: “Heo may lành lạnh thu về/ Sương giăng bàng
bạc chiều quê rầu rầu” (Thu sang). Mùa đông mưa
gió não nề, rét buốt tái tê, làm cho người thơ thổn
thức: “Cuối đông, gió lạnh bên song/ Mưa rơi
rả rích cho lòng lạnh hơn/ Chuông chùa vọng tiếng chập
chờn” (Những ngày cuối đông). Tôi đồ rằng, nhà
thơ ở mảnh đất “gió Lào, cát trắng” không ai viết
thơ về các loài hoa nhiều như nhà thơ Nguyễn Văn Trình,
vì các loài hoa ấy mang ý nghĩa rất lớn trong công việc,
tình yêu và cuộc sống của anh: Hoa hướng dương, hoa
cúc, hoa mười giờ, hoa trinh nữ, hoa bằng lăng, hoa hoàng
lan, hoa hồ điệp, hoa hồng, hoa sim, hoa mua …Mỗi loài
hoa có mỗi vẻ đẹp riêng, tôi chỉ điểm qua cái đẹp
của hoa cỏ lau trong bài thơ “Lau trắng ngày đông”.
Màu sắc trắng tinh khôi của bông cỏ lau mềm mại lay
lay trong gió, khiến người ta khó cưỡng lại được
trước vẻ đẹp của loài hoa mộc mạc này. Nhà thơ mượn
hoa lau nhắc nhớ về mối tình trong trắng: “Chuyện
tình ngày cũ dễ chi/ Cái thời thơ dại những gì nhớ
quên” và “Nhớ xưa ánh mắt, nụ cười/ Nhớ bờ
lau trắng, thuở người thơ ngây”.
Nhà thơ Nguyễn Văn Trình không chỉ “ngắm hoa, thưởng
trà, mơ mộng”, đôi lúc thơ anh triết lý với đời,
rạch ròi thật giả, ngẫm nghĩ điều được mất, để
tự răn mình: “Kiếp nhân sinh”, “Có chi mô”, “Lẽ
đời nông sâu”, “Đời ngắn lắm”, “Sống đâu
phải”, “Chuyện thật giả”, “Rồi một ngày”, “Thế
nhân”, “Tuổi xế chiều”…mong cho “Người với
người sống để yêu nhau” (Tố Hữu). Và những bài
thơ anh viết: Về cô gái Lào, về biển, về tình yêu, về
sông quê, về làng xóm…với thi pháp nhẹ nhàng, dung dị,
gần gũi, đi vào lòng người yêu thơ.
Trọn một đời cống hiến cho ngành giáo dục, cho học
sinh thân yêu. Ngày anh rời bục gỉảng về với tổ ấm
gia đình chuyên tâm làm thơ, tham gia những đợt đi thực
tế sáng tác. Mấy chục năm gắn bó trường lớp, đồng
nghiệp, học sinh nay trở thành dĩ vãng, anh đành chấp
nhận quy luật cuộc sống để tìm niềm vui mới cho mình:
“Tiếng ve nghe vọng bần thần/ Từ cây phượng đỏ,
từ cành liễu thanh/ Thư sinh áo trắng ngày xanh/ Bao nhiêu
kỷ niệm thôi đành rong rêu…”
(Thôi
đành rong rêu).
Với khuôn khổ bài viết có hạn, tôi chỉ điểm qua
những bài thơ nổi trội trong tập, gửi đến qúy đọc
giả chia sẻ cùng nhà thơ Nguyễn Văn Trình. Hy vọng tập
thơ: “Thôi đành rong rêu”, người yêu thơ
tìm thấy những điều thú vị và sự hấp dẫn trong đó.
Vũng Tàu, ngày 25 tháng 3 năm 2024
Nhà thơ NGUYỄN XUÂN SANG
Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam
Trưởng Ban Văn học, Hội VHNT Bà Rịa - Vũng
Tàu