Tình Sử Dương Kinh
(Sự tích Làng Cổ Đế
Vương-Trà Phương Công chúa.)
I
Một chiều về đất Cổ
Trai (1)
Lạc vào cổ tích quê tôi một
thời
Để vương triều Mạc lâu rồi
Vẫn còn vang mãi trong
lời hát ru
Chuyện rằng từ những
ngày xưa
Đăng Dung (2) đánh
cá chèo đò bến sông
Vui con nước lớn nước
ròng
Làm chim sải cánh vẫy
vùng nước non
Đồ Sơn trâu hội (3) mùa
sen
Non ngàn bãi bể đua chen cùng về
Cắm sào đò gửi chân đê
Đăng Dung vội quẩy hai bề
(thống) (4) nước trong
Bể nhỏ gửi ở Lão Phong (5)
Lớn đến Lê xá (6) tặng
ông quan nghè (7)
Phạm Gia Mô (8) quan nhà
Lê
Khen Đăng Dung khoẻ nhất quê biển
này
Nhận làm nô bộc * liền tay
Kinh kỳ đô hộ tháng ngày ruổi
rong
II
Gặp ngày hội vật Trà
Phương (9)
Mấy đô tài trổ oai phong hơn
người
Dừng chân quán nước sừơn đồi
Đăng Dung ướm thử ngỏ lời xin
đua
Lão hàng nước tưởng chuyện đùa
Nghĩ tài mấy bậc dám đua chốn
này
"Rằng đô nổi tiễng xưa nay
Đã ai thắng được ở đây bao
giờ."
Đăng Dung cúi lạy rồi thưa
"Trai tài gặp hội, mây mưa
gặp rồng
Lão rằng: "Thôi hãy gắng công
Nếu thắng lão nhận làm chồng
con ta!"
Sân đình dậy tiếng hò la
Mấy đô sát khí bước ra sầm
sầm
Đăng Dung đĩnh đạc lặng thầm
Chưa tàn khắc đã tay cầm bảng
son
Dân làng chưa ngớt lời khen
Nhìn ra Dung đã chân chen hội làng
Không màng thứ hạng bạc vàng
Thày trò lại vội đăng đàng đế
đô
III
Một ngày ở chốn cung vua
Đăng Dung gánh kiệu nươc (10) qua
sân rồng
Nhà vua vui mắt ghé trông
Hỏi: "Người đâu thể thần
đồng sức trai?"
Phạm Gia Mô vội cúi tâu:
"Gia nô khanh tuyển hội trâu
quê nhà!"
Lần lần tháng lận năm qua
Gia nô Dung vẫn phận là gia nô
Gặp năm mưa thuận gió hoà
Triều đình mở hội vua ra kén
tài
Đăng Dug sức khoẻ tuyệt vời
Một mình thắng được mười
người như không
Chức Đô lực sỹ vua phong
Tuyển làm vệ sỹ hầu trong cung
đình
Nước non loạn lạc điêu linh
Vua sai dẹp bẩy loạn binh sứ
Đoài (11)
Lửa gươm luyện trí anh tài
Đăng Dung đánh dẹp trong ngoài
bình an
Được phong trấn thủ (12) Sơn
nam (13)
Chức Tả đô đốc (14) vẻ
vang oai hùng
IV
Việc quân được buổi thung
dung (15)
Chạnh lòng nhớ hội Trà Phương
năm nào
Nhớ hàng nước đã ghé vào
Nhớ lời lão hứa kết trao duyên
tình
Vội sai song mã (16) kiệu
đinh (17)
Đón nàng thôn nữ về dinh tỏ
lòng
Trà Phương từ mãn hội làng
Con lão hàng nước bẽ bàng trúc
mai
Nhớ ngày hội mở đua tài
Lão đã hứa gả người trai qua
đàng
Nàng là Vũ thị Ngọc Toàn (18)
Tuổi hoa đang độ nồng nàn quỳnh
giao (19)
Hương xuân mơn mởn má đào
Bỗng thành e ấp lời trao thẹn
thùng
Đau lòng thay đoá phù dung
Chưa khoe hết thắm đã dùng dằng
qua
Sen tàn cúc mới nở hoa (20)
Chưa có đông lạnh sao mà xuân
sang
Mỏi mòn chờ mở hội làng
Đón người trai ấy lại sang đua
tài
Ngày dài tháng cứ dằng dai
Ngượng ngùg gương lược, biếng
cài Hoa trâm
Lời vàng từ đó lặng câm
Rằu ràu khuôn ngọc héo bầm liễu
hoa
Đường thôn một buổi sáng loà
Ngựa hồng, võng lụa Lọng hoa
rộn ràng
Lệnh truyền: "Thôn nữ Ngọc
Toàn
Kiệu hoa (21) Xin đó rước
nàng về cung
Sánh duyên cùng Mạc Đăng Dung
Bạc vàng gửi lại tạ công sinh
thành!"
Ông tơ bà nguyệt cao xanh
Duyên trời sắp đặt rành rành …
phải chăng!
Tỏ lòng đức độ minh anh
Vua phong công chúa kết thành liên
gia (22)
V
C an khôn dâu bể can qua
Vương triều Lê hoá ra ma quỷ rồi
Đăng Dung quân giỏi tướng
tài
Phế vua lợn (23), quỷ (24).Lên
ngai bệ rồng
Lập vương triều Mạc oai hùng
Mở trang Quốc sử lẫy lừng công
lao
Gái Trà Hoàng hậu ngôi cao
Mẫu nghi thiên hạ làm nao nức
lòng
Ở ngôi nặng mối thâm tình
Trích ban ruộng đất dân mình làm
ăn
Ấy là lộc nước phúc dân
Trăm năm sau vẫn trong ngần tiếng
thơm
Trai rài làng Cổ: đế vương
Gái ngoan công chúa Trà Phương
(từ) bấy (đến) giờ)
Kết
Trong cơn khói lửa mịt mù
Sáu nhăm năm với cõi bờ
rồng tiên
Ra công đãi sỹ chiêu hiền (25)
Giao thương công nghệ mọi miền
mở mang
Rạng danh máu đỏ da vàng
Tây đông nức tiếng bắc nam quy
về
Hoá thân vào cõi hư vô
Không, không sắc sắc ảo mờ
khói hương
Tôn thờ trong chốn Phật *(26) đường
Cửa Thiên Phúc Tự (27) Trà
Phương nặng tình
Vần soay con tạo gập ghềnh
Chuyện tình vua Mạc vẫn truyền
sử xanh
Nổi chìm qua mấy trăm năm
Mà câu chuyện cũ vẫn đằm trang
thơ
.....Chuyện rằng từ thủa ngày
xưa... /.
Kiến Thụy tháng 8 2004
***
Chú thích:
*1-Cổ Trai: Làng Cổ Trai
thuộc xã Ngũ Đoan H Kiến Thụy TP Hải Phòng -Quê hương
Mạc Đăng Dung là trung tâm Dương Kinh xưa.
*2- Đăng Dung: Mạc Đăng Dung
Người Lập lên vương triều Mạc Thế kỷ16.
*3-Hội trâu: Lễ hội chọi
trâu ở Đồ Sơn H P tổ chức vào 10 tháng 8 âm lịch.
*4- Thống: cái bể đựng
nước cổ đúc bằng xỉ vôi và nước đưòng, hình trụ,
thể tích khoảng 1m3.
*5- Lão Phong: làng thuộc xã
Tân Phong h Kến Thụy.Hiện, nay vẫn còn cái thống nước
ấy.
*6- Lê Xá; Làng thuộc xã Tú
Sơn h Kiến Thụy Xưa kia là một làng khoa bảng của Hải
Phòng có 7 tiến sỹ nho học (chỉ sau làng Mộ Trạch Hải
Dương).
*7- Nghè: một chức quan
thời phong kiến.
*8- Phạm Gia Mô: Người Làng
Lê Xá là Quan Tể tướng của nhà Lê Sau Đã có công đưa
Mạc Đăng Dung lên ngôi vua lập ra vương triều Mạc, Được
nhà Mạc phong tước Hải Quốc công.
*9- Trà Phương: làng thuộc
xã Thụy Hương h Kiến Thụy Tp / H-P.
*10- Kiệu nước: hình trụ
bằng sành dung tích khoảng 1m3.
*11- Sứ Đoài: Vùng Sơn Tây, Hoà Bình.
*12- Trấn thủ: chúc quan đứng đầu 1 trấn.
*13- Sơn Nam; Vùng Nam Định Ninh
Bình.
*14- Tả đô dốc: Chức
quan cai quản quân đội của 1 đạo tương đương 1 binh
chủng.
*15- Thung dung ý nhàn rỗi.
*16- Song mã: Loại xe kéo bằng 2
ngựa.
*17- Kiệu Đinh: Loại kiệu sang
trọng của nhà quan này xưa.
*18- Vũ Thị Ngọc Toàn; Sau được
phong là Thái Hoàng Thái Hậu. Hiện được thờ ở Đền
Hoà Liễu xã Thuận thiên và chùa làng Trà Phương.
*19- Guỳnh giao là 2 loài cây trồng
liền nhau làm cây cảnh, thường được ví như tình yêu
nam nữ.
*20- Thơ Nguyễn Du.
*21- Kiệu hoa: loại kiệu cho cô
dâu ngồi về nhà chồng trong ngày cưới.
*22- Liên gia; ý nói 2 gia đình
thân thiết.
Vua Lê phong cho Ngọc Toàn là Công
chúa.
Để nhận Mạc Đăng Dung là Phò
mã nhằn giữ Mạc Đăng Dung phò tá trung thành.
*23- 24 Triều Đình nhà Lê suy
đồi Lê Uy Mục.
ham mê tửu sắc, hoang dâm
cực độ, nhân dân gọi là vua lợn . Vua Lê Tương Dực
độc ác vô độ , coi mạng người như cỏ rác
...nhân dân gọi là vua
quỷ.
*25- Đãi sỹ chiêu hiền: ý nói đối đãi tốt với kẻ sỹ, coi trọng hiền tài. 65 năm ở Thăg Long nhà Mạc đã mở 22 khoa thi Đình, lấy đỗ 484 tiến sỹ trong đó có 13 trạng nguyên như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Nhữ ...
*25- Đãi sỹ chiêu hiền: ý nói đối đãi tốt với kẻ sỹ, coi trọng hiền tài. 65 năm ở Thăg Long nhà Mạc đã mở 22 khoa thi Đình, lấy đỗ 484 tiến sỹ trong đó có 13 trạng nguyên như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Nhữ ...
*26- - Khi nhà mạc thất bại
nhân dân vùng Dương Kinh đã tạc tượng Mạc Đăng Dung,
Vũ thị Ngọc Toàn, Mạc Đôn Nhượng đưa vào thờ
ở các chùa như thờ Phật.
*27- - Thiên Phúc Tự là chùa làng Trà Phương hiện trong cung Phật còn thờ 2 pho tượng: Mạc Đăng Dung và Vũ thị Ngọc Toàn... /.
*27- - Thiên Phúc Tự là chùa làng Trà Phương hiện trong cung Phật còn thờ 2 pho tượng: Mạc Đăng Dung và Vũ thị Ngọc Toàn... /.
Ngô Quang Khoát
nuidoisongda2015@gmail.com
No comments:
Post a Comment