THỤY SƠN - NGƯỜI CHẠM TRỔ GIẤC MƠ NGÀN
Trương Công Hải
Tôi được chị Thụy Sơn tặng một tập thơ, Bài viết xem như một lời cám ơn chị.
I. Người chạm trổ giấc mơ ngàn
Ngày không gió là một ngày hư cấu, là cái cớ để nhà thơ trút nỗi mưa lòng:
“Ngày không gió
Nắng không về bên cửa
Có một người đem nỗi nhớ ra phơi"
(Ngày không gió)
Nỗi nhớ của Thụy Sơn chính là quá trình quán tưởng tự thân đã đến lúc cần được đánh thức, quá giang vào thơ, dũng cảm vượt cạn theo cơn sóng, vỗ bềnh bồng vào tập thơ.
Nhà thơ Thụy Sơn |
Thơ đối với tâm hồn Thụy Sơn là một điều kiện cần và đủ để giải tỏa những trăn trở hiện sinh của một phận người lạc lõng giữa đời thường.
Vì thế, mở đầu tập Ngày Không Gió là bài Xin Làm Người Thắp Nến. Bài này chưa hẳn là một tuyên ngôn thơ, mà nó được xem như là một sứ mệnh tự thân, thắp sáng tâm hồn cho thơ:
“Người đàn bà
Xin làm người thắp nến
Lửa nhóm trong thơ
Huyết lệ tâm hồn
Nhai lại tuổi mình tròn khuyết một tháng ba.”
(Xin làm người thắp nến)
Nhai lại tuổi mình tức là quán tưởng đời mình, một tháng ba mươi ngày đủ.
Với một năng khiếu thiên bẩm, nhà thơ đã tự tin làm được sứ mệnh này. Khổ thơ sau đây là một minh chứng
“Người đàn bà gánh chữ đi xa
Thân cổ lục/ hồn ngữ ngôn hóa đá
Lời rêu phong chạm trổ giấc mơ ngàn”
(Xin làm người thắp nến.)
Thơ luôn bước ra từ tâm hồn rồi hóa thân thành con chữ, nói thành lời, diễn thành ý.
Xét về nội dung thì bốn yếu tố trên được gói gọn gàng vào khổ thơ.
Xét về hình thức nghệ thuật thì cả bốn yếu tố trên đều được thi ảnh hóa. Từ những khái niệm phi vật thể chuyển thành vật thể để người đàn bà có thể gánh chữ, hóa đá ngữ ngôn, dậy rêu phong và cuối cùng là chuyển thể bài thơ thành hình tượng của một tác phẫm điêu khắc: “Chạm trổ giấc mơ ngàn”.
Có thể nói Thụy Sơn đã không dùng ngòi bút mà dùng chiếc đũa thần kỳ để phù phép về mặt ngôn ngữ.
Cùng với việc gặm nhắm nội dung hơn 150 bài thơ trong tập Ngày Không Gió,tôi chắc sẽ không sai khi gọi Thụy Sơn là: Người Chạm Trổ Giấc Mơ Ngàn.
II. Chiếc đũa thần kỳ
Thơ là lối thoát của lòng, tuôn ra từ ý nghĩ. Nhưng thơ của Thụy Sơn thì khác, đi ra từ tư duy. Tư duy là một bước nữa của ý nghĩ sau khi đã nhận thức, nên ngôn ngữ phù hợp nhất để chuyển tải tư duy chính là từ Hán Việt. Từ Hán Việt được xem như là một linh kiện đã định hình. Đẹp và phong phú về mặt ý nghĩa. Các từ như Huyền Trân, Huyết Lệ… diễn nôm ra thì không hay bằng để y như vậy.
Thơ Bà Huyện Thanh Quan đẹp quý phái nhờ vận dụng nhuần nhuyễn loại từ này.
“Gác mái ngư ông về viễn phố
Gỏ sừng mục tử lại cô thôn.”
Thụy Sơn là người vận dụng tối đa từ Hán Việt vào thơ, thỉnh thoảng có chút điển tích,lại cộng thêm cú pháp tư duy, rất giàu hình ảnh ẩn dụ, nên có một số người khi đọc qua thấy hơi khó hiểu.
“Văn kỳ thanh/Bất kiến kỳ hình
Khẻ chạm vào/Ngôn ngữ lặng thinh
Đôi mắt Đường Thi/Nghiêng Bạch Mã
Một hồn luận thuyết/Ngát Ninh Bình
Ta xin hóa thạch/Chờ tri kỷ
Người có là đêm rót thịnh tình
Chiết tửu.
(Nói cùng tri kỷ)
Đúng là người yếu vía thơ mới đọc mà hiểu là chết liền. Khó hiểu nhưng có thể cảm nhận được chất men say trong thần thái của thơ, dù tác giả là người nữ,chắc không uống.
Đây là lời độc thoại với tri kỷ Thôi Hiệu, một nhà Đường thi, hẹn chờ đêm đối ẩm.
“Người có là đêm rót thịnh tình
Chiết tửu."
Lời mời rượu hào sảng của một cuộc rượu hư mà rất thực, khác gì một cuộc người rất thực mà hư trong thơ Thụy Sơn.
Dòng thơ tư duy của Thụy Sơn không rơi vào kể lể, tả thực hay trần tình bằng lời, như nhiều tác giả thường gặp.
Thơ của Thụy Sơn rất giàu thi ảnh, suối nguồn tư duy tuôn ra từ ẩn thức nên thi ảnh là ngôn ngữ phù hợp nhất để đặc tả những sắc thái của nỗi niềm thân phận.
“Từ em,
Đánh cắp nụ cười
Ta dung nhan đó/ra người cổ sơ
Hẹn nhau hay là tình cờ
Trăng trăm năm gảy đôi bờ hợp tan
Em đi về phía xa xăm
Bên ta khuyết một chổ nằm từ đây.
(Chiều rụng bên hồ)
Những hình ảnh ẩn dụ gợi sự mất mát như nụ cười bị đánh cắp, tiều tụy về dung nhan, tan tác một cuộc tình rồi đột nhiên vén toạc bức màn thực: Em đi về phía xa xăm/ Bên ta khuyết một chỗ nằm từ đây.
Nói một cách hoa mỹ theo cú pháp của nhà thơ là, nỗi niềm được mạc khải bằng một thực tế hiện sinh. Vì thế thơ Thụy Sơn luôn thấm đẫm một triết lý nhân văn:
“Người đàn bà gối đầu trên nửa giấc hoàng hôn
Đưa môi cắn nỗi buồn vỡ nát
Đêm hợp cẩn của loài chim hoàng hạc
Ngó xuống bóng mình một nửa khuyết rưng rưng."
(Nửa khuyết)
III. Gõ cửa đền thiêng
Đến đây có thể nói ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Thụy Sơn là không lạ nhưng tân kỳ.
Thơ Thụy Sơn luôn ẩn hiện một nỗi buồn cô đơn bản thể (Từ dùng của bạn Hồ Sỹ Bình).
Trước hết ta hãy nghe Hàn Mặc Tử cảm nhận về điều này:
“Ánh trăng mỏng quá che không nổi
Những vẻ xanh xao của mặt hồ
Những nét u buồn tơ liễu rũ
Những lời năn nỉ của hư vô
Chao ôi! Ghê quá trong tư tưởng
Một vũng cô liêu cũ vạn đời"
Và nghe Trịnh Công Sơn:
“Con diều bay mà linh hồn quạnh quẻ
Con diều rơi cho vực thẳm buồn theo.”
Vũng cô liêu của Hàn Mặc tử hay linh hồn quạnh quẽ của Trịnh là những hóa thân của nỗi cô đơn bản thể. Cả 2 người này còn trên cả cô đơn.
Và Thụy Sơn cũng không ngoại lệ, có những lúc lạc lõng giữa đời thường:
“Tìm nhau trong cuộc vô thường
Tiếng kêu khàn giữa mù sương núi đồi
Hẹn nhau cùng một dòng trôi
Sông người rẽ nhánh, sông tôi lỡ bồi.”
(Tri âm)
Hay độc hành trong đêm phố núi
“Người đàn bà giẫm bóng trong đêm
Gùi cô đơn đi bên xe thổ mộ
Đánh cược đời mình
Bên kia con dốc đổ dài.”
(Chiếc khăn quàng bỏ quên trên phố núi)
Con dốc đổ dài, nghe như tiếng thở dài của một nỗi cô đơn sâu thẳm.
Tác giả Trương Công Hải |
Đọc thơ Thụy Sơn, ta nhận thấy có cùng một mẫu số chung với lời nhạc Trịnh, họ đều nói về những phận người.
Chỉ khác là ở Sơn Trịnh, ông nói đến phận đời khắc khoải của con người và của dân tộc trong thời cuộc chiến tranh. Vì sự phiêu lưu tư duy dài tay của ông, nên ông đành chịu sự bế tắc sau cuộc chiến. Bài Tiến Thoái Lưỡng Nan là một ví dụ.
Còn ở Sơn Thụy, thơ là một nỗi niềm cá nhân và những nút thắt từng bước trong đời đều được hóa giải theo tư tưởng của Pháp Phật một cách ngoạn mục.
Đọc thơ Thụy Sơn, ta bắt gặp nhiều thi ảnh của tư duy quán tưởng:
“Chưa choàng y áo Chân tu
Qua sông đã rớt kinh thư thuở nào
Đọa làm kiếp lá hanh hao
Vàng thu ta rụng xanh xao nỗi buồn.”
(Vàng thu lá rụng)
Hay: “Hành châu nghịch thủy về đâu
Sóng Tràng Giang nhuộm trắng màu biệt ly
Đò chưa qua buổi xuân thì
Sông trăng giờ đã già đi nhánh buồn.”
(Vàng thu lá rụng)
Từ một kiếp lá hanh hao nhà thơ đã dự cảm được vàng thu lá rụng. Từ thuở đò chưa qua buổi xuân thì nhà thơ đã quán tưởng được sông trăng giờ đã già đi nhánh buồn và hành châu nghịch thủy, lội ngược dòng để tìm về nguyên ủy phận đời.
Quán tưởng thông thì phát sinh quán niệm, thấy hết lẽ đời mới phát tâm buông bỏ.
“Người đàn bà ngồi giấu mặt
Sau giải khăn mây
Dịu dàng phóng sinh… nỗi nhớ!”
(Phóng sinh nỗi nhớ)
Hay: “Buồn gì mây xuống trắng trong
Nặng lòng chi đục,trong ao người
Ta ngồi nhìn được mất, trôi
Đời sông cũng được dòng trôi về nguồn”
(Về nguồn)
Vượt qua được hai giới cảnh trên, thơ của Thụy Sơn chứng nghiệm được quán không:
“Ai về bên ấy cho tôi hỏi
Ở cõi thiên thu có Niết Bàn
Dấu chân trên nước còn hay mất
Dưới cội…nghìn thu một quán không.”
(Quán không)
Tư duy Quán không trong khổ thơ trên, có một câu hé lộ cho thấy nhà thơ đang đứng bên ni bờ của không sắc với một câu hỏi tu từ: Dấu chân trên nước còn hay mất?.
Như vậy sắc không của bản thể không còn là điều vô minh với thơ của Thụy Sơn nữa:
“Người đàn bà vẫn ngồi dấu mặt
Sau giải khăn mây
Thấy trắng trong đen
Thấy không trong có.”
(Phóng sinh nỗi nhớ)
Nghiệm chứng được sắc không là điều kiện đủ để đi đến cảnh giới của tánh không:
“Cội Bồ Đề ôm bóng
Tịch lặng cõi mù sương
Lòng không mưa không nắng
Vạn Pháp bừng hư không.”
(Quán không)
Vì thế, dẫu cuộc đời có bắt đầu bằng:
“Những chiếc lá non khiếm khuyết/Khai sinh từ buổi nhú chồi.” (Lá khuyết)
Nhà thơ đã biết cách dùng ngòi bút để phóng sinh nỗi nhớ và đạt được giới hạnh buông bỏ.
Có khả năng thơ chị không cần dùng đến chén Cháo Lú mà vẫn tới được bờ vô minh, bởi lòng quyết tâm của chị khi bước vào đền thiêng:
“Áo còn/ trắng lụa Duy Xuyên
Lòng còn/ mở cửa đền thiêng bước vào.”
(Gõ cửa đền thiêng)
Cũng như Hàn Mặc tử hằng tin vào Chúa và mơ thơ bay đến chốn Phượng Trì.
Tư tưởng Đạo trong thơ của Thụy Sơn đang đi trên con đường của Pháp, đó là con đường hạnh phúc miên viễn, như Thiền Sư Thích Nhất Hạnh đã nói: “Làm gì có con đường dẫn đến hạnh phúc, vì hạnh phúc là một con đường.”
Nhân đây, để kết thúc bài viết này, tôi xin được quá giang vài câu thơ của chính mình khi gặp lại người thơ năm xưa trong màu áo nâu sòng.
“Thân vô sở trụ
Em duyên về nơi Mô Phật
Chút phận đời tàn
Anh đi tìm Phật nơi mô?”
(Thơ phai hồn ma nữ - tch)
Có nghĩa là tôi vẫn còn lẫn quẫn trong vòng tục lụy. Còn chị, là người đã có một hồn thơ được phóng sinh.
Trương Công Hải
9/2023
No comments:
Post a Comment