Bận chi lời gió gieo neo
Thương nhau chín núi mười đèo cũng qua
Sầu chi vời vợi trăng xa
Còn trong nhung nhớ riêng ta với mình...
TỊNH BÌNH
(Tây Ninh)
TRANG THUẦN TÚY VĂN HỌC NGHỆ THUẬT CỦA NGƯỜI QUẢNG TRỊ VÀ NGƯỜI YÊU MẾN QUẢNG TRỊ.
Nhà văn Lê Hứa Huyền Trân |
MÙA TRÁI DẦU RƠI
Tùy bút
LÊ HỨA HUYỀN TRÂN
Những ngày chớm hè tôi dạo bước trên con đường rợp nắng mà bỗng thấy lòng mát rượi ngẩn ngơ. Con đường mà tôi đã đi qua quen thuộc rất nhiều lần ở những khoảng thời gian khác nhau luôn khoác lên mình một màu rất khác. Cảm giác của thứ vốn đã quen bỗng chốc hóa thành lạ mang đầy mùi khám phá khiến tôi yêu con đường này mỗi lúc một nhiều hơn. Khi nắng bắt đầu chảy tràn trên vai tôi và cái rát thuở ban đầu của nàng hè bắt đầu tinh nghịch trên mái đầu thì cánh “chong chóng trái dầu” đầu tiên bắt đầu rơi xuống. Và cơn gió nhẹ thổi qua, những cánh hoa dầu bắt đầu buông cành rợp kín mặt đường. Tôi chợt hiểu mùa rơi của những trái dầu đã về.
Ngày trước cứ giữa hè là đến mùa trái dầu bay nhưng nay thì đã bắt đầu sớm hơn khi vừa chớm hè đã thấy chúng chuyển màu từ những lá non ửng đỏ sang độ vàng và nâu và bắt đầu thả mình theo gió. Ngày còn bé, lũ trẻ chúng tôi gọi chúng là hoa bông vụ, vì chúng tựa hao hao với trái dầu có hai cánh lá cứ như bông vụ xoay tròn, một tạo hình đầy ngộ nghĩnh. Khi còn đi học, trông chúng như những cái cầu mà chúng tôi đá trong giờ thể dục nên chúng tôi hay nhặt và vờ đá, nhưng chúng không đủ sức nặng để bay cố định, chỉ là lấy chơi vài lần rồi buông bỏ. Lũ trẻ chúng tôi cứ hay lấy chúng bỏ vào tay, kẹp rồi xoay một lực thật mạnh rồi buông rơi chúng, khi ấy những cánh dầu sẽ xoay tít tròn trong không trung nom đẹp mắt vô cùng. Có những lúc lũ trẻ con chơi trò cô dâu- chú rể, những “phù dâu” bé xíu trèo lên cây thả những cánh dầu xuống “lễ đường”, chúng xoay tít tạo ra khung cảnh nhìn vừa ảo vừa thực. Vì chúng không thả mình tự nhiên như những cánh hoa rơi mà xoay tròn nên khung cảnh động có phần kì ảo hơn.
Hoa dầu đi theo tôi cùng năm tháng, lại đổi tên trong mỗi mắt nhìn. Khi tôi bắt đầu yêu, cách nhìn của tôi về những trái dầu rơi có phần lãng mạn hơn, tôi bắt đầu gọi chúng là “hoa gió” hay “hoa chong chóng”. Con đường mà tôi và em đã đi qua, hai bên là những cây dầu cao to với những tán lá cao vút tỏa mát cả một quãng đường dài. Mỗi khi có một cơn gió nhẹ thổi qua những trái dầu bắt đầu rơi xuống theo đợt kín cả một góc trời, nắng khi ấy bỗng trở nên dịu dàng hơn trong mắt của những người đang yêu. Vỉa hè và cả lòng đường khi ấy như bị nhuộm vàng bởi những trái dầu rơi. Thanh âm đẹp nhất của tôi khi ấy là cảnh em nhặt cả một vòng tay những trái dầu rơi rồi tung xòe trong nắng. Hoa dầu đẹp trong gió, còn em đẹp trong tôi.
“Cánh hoa dầu xoay tít bay bay/ Nhớ ngày xưa bên nhau từng ngày”… tôi nghe lời bài hát của nhạc sĩ Giap Văn Thạch đâu đây khi quay về con đường xưa cũ mà thiếu đi một bóng hình. Cũng chỉ có những cánh dầu rơi đầy trên vai áo tôi như an ủi, như để mong chờ một khởi đầu mới. Tôi vẫn hay nhìn chúng rụng và cho rằng đó là đẹp nhưng với chúng, đó là đã kết thúc một chuỗi đời. Cũng là khúc ly tan. Chúng gieo mình để nảy lên một điệu nhạc buồn cũng là một kết thúc đẹp nhất. Đột nhiên một tia nắng vàng vọt rơi xuống tay tôi, bất giác ngẩn ngơ không nhận ra tay đã nắm chặt một trái dầu tự lúc nào, qua những kí ức vẫn đang rơi kia, tôi thấy không chỉ những trái dầu rơi, mà cả tôi, như được chúng ủi an, cũng bắt đầu chờ đợi một khởi đầu.
Tác giả: Lê Hứa Huyền Trân
Hội viên Hội VHNT Tỉnh Bình Định
KHÓC...
*
Theo tín ngưỡng dân gian thì người Sát Âm là người có thể nhìn thấy người âm, thậm chí nghe được người âm nói chuyện nhưng không giao tiếp (trò chuyện) được với người âm. Điểm đặc biệt ở người Sát Âm là dễ bị các âm linh mượn xác để nhập vong. Còn những người hoặc "có cốt tiên" (là những “tiên cô tiên cậu”, những "nguyên thần"... ở cõi Trời vì lý do nào đó mà đầu thai chuyển kiếp xuống cõi Trần), hoặc là "người của Tứ Phủ", có số "Mở Phủ Trình đồng" thì có thể giao tiếp với người âm, thậm chí còn tương tác tình cảm (ái, ố, hỉ, nộ) với người âm như hai người ở cùng một cõi.
Ngoại trừ những người có khả năng giao tiếp ngôn ngữ nói với người âm - là nhóm người rất ít trong xã hội, có thể chuyện trò, tương tác với người âm như 2 người đang sống mà không lo sợ sẽ bị người âm "bắt hồn" về cõi Âm ti - Địa phủ, ví như giấc mơ trong câu chuyện sau:
"Hoảng hốt thấy tủ sách cạnh cầu thang không còn. Nhìn vào thì phòng trống trơn. Định lên tầng thì một nhóc trai trong xó nhà vọt chạy. Đuổi theo nhưng không kịp, quay về lại thấy bố con anh Quý cùng 1 thanh niên đang dọn phòng.
Định đi ngủ thì 5 thanh niên vào chào tạm biệt.
Hỏi: - Các cậu là ai?
Áo đen trả lời: - Quấy quả anh đủ rồi.
Áo vàng cười nhạt: - Anh tò mò thế.
Giật mình hỏi: - Là mấy vong vẫn trêu tôi?
Áo trắng toét miệng: - Biết làm gì?
Sợ quá, tỉnh giấc. Ngó đồng hồ: 3 giờ 45.
Người mệt nên mơ vậy?
Ghi lại để kiểm chứng."
- thì những người khác (số đông trong xã hội) như: người Sát Âm, người không thuộc người Sát Âm, cũng không thuộc người "cốt tiên", không thuộc "người Tứ phủ" sẽ không thể trò chuyện với người âm. Trong giấc mơ gặp người âm, những người thuộc nhóm này không chuyện trò, tương tác được với người âm mà chỉ có thể hoặc người âm nói còn người dương nghe, hoặc người dương nói còn người âm nghe, hoặc có những tương tác về hành động nhưng tuyệt không có trao đổi về ngôn ngữ nói giữa 2 người, ví như giấc mơ trong câu chuyện dưới đây:
"Đêm qua, khi lơ mơ ngủ thấy lởn vởn bóng người ngồi xuống giường, cười lẳng lơ, tình tứ lắm. Tự dưng lại có ý thích kỳ quặc: muốn hôn người âm xem cảm giác thế nào, liền nháy mắt, mời gọi. Khuôn mặt xinh xinh cúi xuống, phả làn hơi lạnh ẩm ướt vào mặt, liền giật mình hoảng hốt: nếu bị hút hết dương khí thì sao? liền đẩy khuôn mặt đó ra nhưng không được. Bực, chửi: - "Mẹ mày! Muốn đọa xuống chín tầng địa ngục à!". Khuôn mặt đó liền nhòa đi rồi biến mất.
Tỉnh giấc, không biết là mơ hay đã gặp người âm thật.
Từ sáng đến giờ, thi thoảng nghĩ đến giấc mơ vẫn thấy lạnh người."
nên nếu ai đó trong nhóm người này "đột nhiên" có cuộc giao tiếp bằng ngôn ngữ nói với người âm thì người đó đã "bị âm linh bắt hồn", sự sống chỉ còn được tính theo ngày, theo tháng.
Cũng lưu ý rằng, môn Tử Vi Trung Quốc có sao Âm Sát, là sao của linh giới thuộc nguyệt hệ, chỉ đóng ở các cung: Dần, Tí, Tuất, Thân, Ngọ, Thìn, được an theo tháng, thứ tự an như sau: 1 (7): Dần, 2 (8): Tí, 3 (9): Tuất, 4 (10): Thân, 5 (11): Ngọ, 6 (12): Thìn. Sao Âm Sát không thuận cho cuộc sống của người phàm tục nên Âm Sát đóng ở đâu sẽ đem đến những cản trở, những phiền toái, thậm chí là bất hạnh cho nơi Âm Sát cư trú. Ví dụ: Âm Sát đóng tại Điền Trạch thì nhà cửa thường có ma quỷ. Âm Sát đóng tại Quan Lộc thì hay dính vào mê muội mà phá nát sự nghiệp, gia đình. Âm Sát đóng tại Phu Thê thì hôn nhân dễ gặp cảnh âm dương cách biệt. Âm Sát đóng tại Thiên Di thì thường là người cô độc, ngại giao tiếp, mê muội với những chuyện hư ảo...
Tử Vi Việt Nam không có sao Âm Sát nhưng trong tín ngưỡng của người Việt thì có người Sát Âm, đó là những người thường không may mắn trong cuộc sống, hay gặp những chuyện nằm ngoài khả năng chế ngự của con người.
Người Sát Âm có thể là người “yếu bóng vía” nhưng không hẳn tất cả những người Sát Âm đều là người “yếu bóng vía”.
*.
Hà Nội, ngày 26 tháng 05-2021
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
.
CÔ MÙI CÒN KHÔNG
Nguyễn Đức Tùng
Giữa hai nhân vật chính, Siêu và Mùi, trong tiểu thuyết Xóm Cầu Mới của Nhất Linh, có những câu chuyện lai rai tán gẫu nhỏ nhặt thế này:
Mùi hỏi:
- Quả trứng gì?
- Cô không biết à? Bây giờ cô muốn để một quả trứng đứng dựng trên đĩa, cô làm thế nào?
- Em chẳng bao giờ để nó đứng cả. Để nó nằm tiện hơn.
Siêu cười nói:
- Cô ngớ ngẩn lắm, đấy là nói thí dụ thế.
Những đoạn đối thoại như thế hơi giống nhau mà vẫn cứ riêng biệt cho mỗi trường hợp, đọc hoài không chán. Vì chúng dí dỏm, mỗi lúc bày một khía cạnh. Đối thoại trong Xóm Cầu Mới không phải chỉ là những trang trí, bản thân chúng là các chi tiết, là mạch chuyện, khi chảy chậm, khi chảy xiết. Siêu và Mùi gặp nhau ở hiên nhà, một không gian vừa mở vừa kín đáo. Cái hiên nhà là sáng tạo độc đáo của Nhất Linh, ở xứ nhiệt đới, mái hiên là nơi diễn ra những cuộc trò chuyện, nơi đọc sách, nơi tình tứ. Không gian của mối tình, của những chia tay, của hoa lài trắng và nước mắt. Cái hiên nhà chứng kiến những đổi thay thời tiết.
Ngày trước các nhà văn ít nói về thời tiết, mãi cho đến thế kỷ thứ mười chín, hai mươi, như trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn. Trong ba mươi năm chiến tranh Việt Nam, 1945- 1975, người ta ít nói về nó, con người đâm ra nổi bật hơn thiên nhiên. Thế mà ai cũng biết rằng thời tiết liên quan đến tâm trạng. Nhân vật hạnh phúc thì cảnh vui vẻ, nhân vật đau khổ thì cảnh tiêu điều. Cảnh vật của Nhất Linh không đứng ngoài nhân vật, chúng tham gia, trở thành một phần của câu chuyện. Trong đoạn văn sau đây khi Mùi đến bên hiên đánh thức Siêu, buổi sáng hòa vào tâm hồn một cô gái nhỏ tuổi, lớn lên ở thôn quê, ít học nhưng thông minh, thực tế nhưng giàu cảm xúc.
" Mùi đứng dừng lại ở dưới hiên; ánh trăng hạ tuần chiếu sáng cả chỗ giường Siêu nằm và bóng lá cây in trên vải chăn trắng vì trời yên gió nên trông như là những chiếc lá thêu. Mùi cất tiếng gọi để đánh thức Siêu dậy nhưng gọi rất khẽ vì sợ Siêu thức giấc. Không thấy Siêu trả lời, nàng lại gọi khẽ một tiếng nữa và gọi khẽ hơn. Vẫn thấy Siêu nằm yên, Mùi bước lên hiên rồi ngồi rất nhẹ xuống cạnh Siêu. Nhưng nàng cứ ngồi như thế một lúc rất lâu, yên lặng".
Cái gì cũng nhẹ nhàng, cái gì cũng lửng lơ, cái gì cũng thâm trọng. Tình yêu mới chớm đi tìm ngôn ngữ của nó, cách đi đứng của nó, sự yên lặng của nó. Tôi cũng tìm ra cuốn Xóm Cầu Mới trong một hiệu sách ở Sài Gòn nhỏ, California, mừng rỡ như gặp bạn cũ. Sách do nhà xuất bản Văn Mới in năm 2002, có lẽ dựa theo bản của Phượng Giang với các lời bạt của Nguyễn Thị Vinh và Võ Phiến. Ngày trước, tôi đọc truyện đăng từng kỳ trên giai phẩm Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh.
" Tặng Nguyên, người rất thân yêu đã khuyên tôi trở lại đời văn sĩ và nhờ thế cuốn XÓM CẦU MỚI này mới ra đời.
Hương cảng, trên núi, ngày 16 tháng 10 năm 1949"
Đó là lời đề tặng của tác giả trên đầu sách. Ít người biết rằng cuốn Xóm Cầu Mới đã được ông khởi viết từ những năm 1949 ở Hương Cảng, thời ký bão táp chiến tranh, cách mạng, giết chóc, nồi da xáo thịt. Đọc thế thì biết có một người phụ nữ đã khuyên tác giả từ bỏ con đường chính trị mà về với văn chương. Nhất Linh gọi đó là "cuốn Đông Chu Liệt Quốc của những đời sống tầm thường, vui lẫn buồn, những vui buồn nhỏ nhặt hàng ngày của các nhân vật". Năm 1958, trong Văn hóa ngày nay tập I, Nhất Linh có tâm sự thêm với độc giả: số truyện rất có thể còn tăng thêm nữa hoặc nhiều hoặc ít tùy khả năng làm việc của tôi và tùy sự tìm kiếm được đề tài. Riêng tôi, tôi mong viết độ hai chục cuốn nữa thành một bộ gần vạn trang mới đủ để tả đầy đủ sự phức tạp và muôn mặt của cuộc đời.
Thật đáng yêu. Tiếc ông đã không sống lâu để viết nhiều hơn cho chúng ta đọc. Nhất Linh là nhà tiểu thuyết lớn bậc nhất của thế kỷ hai mươi, bóng của ông bao trùm toàn bộ đời sống văn hóa. Nhưng con đường ông đi thật lạ, qua nhiều ngã rẽ, khúc quanh, từ những truyện ngắn đầu tiên có tính cách mở đường, đến Đoạn tuyệt nổi tiếng, một tiểu thuyết luận đề, nói về sự xung đột giữa cái mới và cái cũ, tấn công vào thành trì của phong tục gia đình và hôn nhân lỗi thời, kêu gọi giải phóng phụ nữ. Nhưng một cuốn tiểu thuyết có tính xã hội như thế vẫn có những đoạn đẹp, như đoạn tả cảnh bốn người ngồi bên lò sưởi trong căn phòng ấm áp của cô giáo Thảo, mà ngoài trời thì mưa bay mờ mờ. Chính cái cảnh ấy làm tôi cảm thương cho số phận của cô Loan sau này. Ngòi bút của Nhất Linh ngày càng sắc nét, trở nên thơ mộng trong Đôi bạn, sâu sắc trong Bướm trắng, bùi ngùi trong Dòng sông Thanh thủy. Bướm trắng là một đỉnh cao nghệ thuật của Nhất Linh, với những đoạn phân tích tâm lý mà vào thời ấy văn học Việt Nam ít biết tới. Cuốn Xóm Cầu Mới được ông xuất bản vào cuối đời, khi đã ở miền Nam, ngay trước cái chết, vì vậy sự phổ biến còn hạn chế, nhiều người không biết đến tác phẩm này. Thật tiếc. Theo tôi đó là một trong những cuốn tiểu thuyết lớn nhất của văn học Việt Nam, với bút pháp giàu suy tưởng, thơ mộng, nhiều câu văn đẹp tuyệt, xứng đáng là kết quả của tâm huyết của nhà tiểu thuyết.
Siêu ngắm nghía cái tai của Mùi, cái tai lộ ra giữa hai làn tóc đen, chàng lấy làm lạ ở với Mùi bao lâu mà chàng chưa từng ngắm đến cái tia này bao giờ. Chàng thấy cái tai ấy có những đường vòng êm êm, thịt tai trắng dịu, trông mát lắm và có vẻ thơm; trong cái tai trong làn tóc đen phảng phất giống một bông hoa nhài mới nở trong đêm. Siêu nghĩ thầm: - Hết yêu cái gáy bây giờ lại đến yêu cái tai.
Như thế là cái tai biến thành một hình ảnh lạ. Tác giả dùng nó để nói về mối quan hệ giữa hai người, thân mật, lửng lơ, bồi hồi. Nhất Linh viết về tình yêu và tình dục một cách kín đáo. Hình ảnh của cái tai trở thành thứ trong thi pháp gọi là ẩn dụ. Nhất Linh xen kẽ những đoạn tả người tả cảnh với những nhận xét của tác giả. Những nhận xét ấy hòa vào mạch truyện theo cái lối mà ngày xưa Nguyễn Du viết Kiều, làm cho giọng điệu của câu chuyện cũng là giọng của tác giả. Không gian trong Xóm Cầu Mới có đủ cả mưa nắng, lụt lội, nhưng nhiều nhất là một không gian mưa bụi êm đềm, dịu nhẹ, trong lành. Không gian ấy làm cho cuộc nói chuyện trai gái bề ngoài không đâu vào đâu mà bên trong đầy ý tứ, gợi lại những kỷ niệm, cách sống. Những thế kỷ mười tám và mười chín, các tiểu thuyết gia Tây phương thường hay tả cảnh vật, khác với tiểu thuyết đương đại. Sỡ dĩ như vậy vì thời trước, dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn, con người từ bỏ thành thị tìm về nông thôn, sống giữa thiên nhiên. Khung cảnh ảnh hưởng đến lời ăn tiếng nói, mối quan hệ của các nhân vật. Chính mối quan hệ quyến luyến của Siêu và Mùi phát sinh một thứ không gian bao quanh họ, ấm áp, mơn trớn. Vì mối quan hệ ấy vừa bóng gió, vừa pha cái mùi mẫn của xác thịt, sự đụng chạm thân mật nên không khí ấy cũng thế, đó phải là buổi chiều mưa, bên hiên mờ tối, bên ngọn lửa nấu cháo khuya, ấm áp, mơ hồ, dưới trời mưa rả rích. Tất cả không gian và thời tiết ấy không những tạo ra cái nền cho câu chuyện kể mà còn được sinh ra từ câu chuyện ấy.
Mùi nói luôn miệng, nhưng Siêu không để ý nghe nàng nói gì. Chàng thong thả nói:
- Ở đời có những cái vui con con thích hơn những cái vui lớn nhiều.
Sau một trong những câu nói vu vơ như thế, tác giả lại cho Mùi nói một câu khác nữa, nhưng là nói thầm: Em đang vui sướng đây, anh có thấy không? Cái tâm sự thiếu nữ ấy cần phải được vang lên trong lòng Mùi vì cô không thể nhịn được: một người đang yêu không thể im lặng mãi được.
Nàng nói thế nhưng lại khẽ đưa hai bàn chân ra như đợi. Siêu thấy rờn rợn khắp người nửa vì thú nửa vì sợ.
- Có nên không?
Tôi ngờ rằng Nhất Linh chính là Siêu mới sống hết được cái giây phút này, mới nhìn thấy cái hình ảnh nửa là ẩn dụ nửa không phải ẩn dụ: chàng nhìn hai bàn chân nhỏ nhắn của Mùi đương bắt chéo cùng với dòng nước từ gáo chảy xuống. Ai đã từng ở bên giếng nước ngày xưa như tôi đều nhớ lại cái động tác này: bắt chéo chân để xối nước. Nước trong cái gáo thì ít lắm. Bắt chéo chân như thế để chùi chân vào nhau và để tiết kiệm. Cử động ấy khôn ngoan, ý tứ, làm lộ ra cái duyên dáng của người phụ nữ. Hình ảnh bắt chéo hai bàn chân mới đẹp làm sao.
Cách giới thiệu các nhân vật cũng thú vị. Cuốn sách có hai mươi lăm chương. Chương một, nhan đề Một buổi sáng, giới thiệu nhân vật Mùi, là một trong những chương hay nhất. Tác giả kể mối quan hệ bà con xa của hai người. Nhờ có mối quan hện này mà Siêu và Mùi gặp gỡ nhau một cách tự nhiên, những va chạm tình cảm hợp lý mà thanh niên thời ấy không thể có được. Phản ứng của Mùi trước thái độ thờ ơ của Siêu, khi chàng bực mình về một chuyện không đâu, hoàn toàn không để ý đến Mùi: cô gái đập mạnh tay vào cánh găng đầy gai sắc đến chảy máu, một tính cách mạnh mẽ, một tình yêu đầu đời, xót đau. Nhưng đó chỉ là sự giới thiệu, nói về chuyện quá khứ mấy năm trước. Trong Xóm Cầu Mới thỉnh thoảng có những đoạn nhắc lại quá khứ như thế, back story. Không những đối với hai nhân vật chính, Nhất Linh mô tả kỹ tâm lý của họ, mà đối với những nhân vật phụ như Mạch, Hải, Hiên, Nhỡ, Tí, Nữa, tác giả cũng dành cho họ những câu văn xứng đáng, sự quan sát tỉ mỉ, âu yếm. Tôi chú ý nhiều đến nhân vật Hải, hình như là một đại diện trí thức lỡ thời duy nhất trong cuốn sách, sự phóng đãng và cái duyên thầm kín của anh chàng, mối đi lại với Hiên. Đoạn hai người gặp nhau bên bàn đèn, hay đoạn Hải hôn vợ mình chạm vào cánh mũi dính dầu mỡ có nhiều quan sát thi vị. Có những đoạn Nhất Linh tả, nhiều người khác cũng tả, mới thoạt nhìn không có gì khác, cho đến khi tác giả đưa ra những nhận xét của riêng mình, buông lời thoại đúng lúc, đúng tình cảnh, đúng tâm lý.
Tôi lấy làm ngạc nhiên: Nhất Linh trải qua biết bao chặng đường, những ngày gian khổ thời kỳ kháng chiến chống Pháp, mất những người thân yêu nhất, Khái Hưng, Hoàng Đạo, bỏ vào Nam, lên núi chơi lan rồi vài năm sau uống thuốc độc tự vẫn, một người như thế mà vẫn giữ được lòng nhiệt thành khi làm báo Văn hóa Ngày nay, nhưng cái đó vẫn còn hiểu được. Cuốn Xóm cầu mới ông viết rải rác trong nhiều năm, khoảng 1949- 1957, toàn là những năm sóng gió, đầy những hình ảnh thơ mộng, một ngôn ngữ duyên dáng, dí dỏm, có cái trẻ trung hồn nhiên mà những người ở tuổi ông khó có được, cái giọng văn tự nhiên, mạch lạc, ra vẻ chất phác ấy thật ra bay bướm, là viên kim cương sáng ngời ở một tâm hồn tươi trẻ, yêu đời, thương cuộc sống. Tôi thoạt nghĩ chữ thương cuộc sống, nghĩ lại quả nhiên đúng lắm. Bạn hãy ngẫm nghĩ xem hình ảnh của Siêu, hình ảnh của Mùi, của những nhân vật khác đi lại nói năng như những niềm vui sướng đột ngột, chữ của Nhất Linh như một mùa xuân tới sớm, như cái dịu dàng e ấp của hoa sói, hoa mộc. Tôi đọc Xóm cầu mới mà yêu tác giả biết bao. Thương cái hồn nhiên tươi trẻ của ông, thương cái tình của ông đối với cuộc sống. Tôi đọc lại lần nữa, một cốt truyện như không có gì mà hấp dẫn, tả những nhân vật bình thường trong cuộc đời nhưng không hề tầm thường. Tôi cảm thấy hồi hộp theo những hồi hộp của Siêu khi lau chân cho Mùi. Đôi khi tôi cũng nghĩ như Siêu:
- Có nên không?
Tôi không biết. Vì vậy mà anh chàng Siêu thông minh nhưng lười biếng ấy, làm biếng cả trong tình cảm, vẫn cứ đeo đẳng tôi hoài. Nhưng đeo đẳng tôi hơn cả là Mùi, người con gái nhỏ tuổi có duyên lạ kỳ, những cảm xúc của thời mới lớn, ướp trong mùi hương của nước chè tàu và hoa mộc. Hoa mộc thì tôi biết lắm, nó thơm lừng trong vườn cũ của bà ngoại tôi, thoảng trên mặt nước của bể cá xây bằng gạch, có bầy cá nhỏ ngủ dưới cánh bèo non tím. Trong một tùy bút, nhà văn Võ Phiến có nhắc đến câu thơ sau đây của Bình Nguyên Lộc:
Ghe ơi vài bữa ghe về
Hỏi người dưới ruộng cô Quỳ còn không?
Những kẻ đi xa như tôi, đôi khi ngồi nhớ nước cũ, cũng muốn bắt chước Võ Phiến mà hỏi:
- Cô Mùi còn không?
Thì còn đó, chứ sao không. Có đi đâu mà mất.
Cô Mùi giỏi buôn bán, làm ăn, có cái khôn ngoan của cô hàng xén, cái chững chạc của bà chủ nhỏ, cái tử tế của người nông dân ngày trước. Cô chất phác mà lém lỉnh, cô hiền lành nhưng dí dỏm, cô tiết kiệm nhưng bao dung. Đó là người phụ nữ Việt Nam xinh đẹp, nết na, thùy mị, một người thực tế nhưng đôi khi vẫn cho phép sự lãng mạn chiếm lấy tâm hồn mình, đôi khi để cho vẻ đẹp hồn nhiên của mình chiếu sáng ra ngoài, làm cho cái không khí mà họ đi qua cũng biến đổi rực rỡ, làm cho cái xã hội nhỏ bé chung quanh họ cũng tử tế hơn lên như thơm mùi hương lạ.
- Em thì không trồng hoa. Em cần có một cái vườn rộng để trồng rau và một cái ao nuôi cá để rán cho thầy em ăn và nấu canh bún cho anh ăn. Thế có được không? Em lại làm một cái chuồng rộng như ở nhà cụ Hường và nuôi một đôi công.
Sao bỗng nhiên lại ra một đôi công thì tôi không biết. Henry Fielding từng nhận xét rằng: "Chắc chắn người ta có thể kể lại sự thật với một gương mặt hài hước". Tôi cũng tin Nhất Linh đang kể lại sự thật bằng nụ cười rất nghịch ngợm của ông. Người ta vẫn thường tin rằng những bi kịch sâu sắc hơn hài kịch, hiện thực hơn, tinh tế hơn những câu chuyện vui tươi. Không hẳn thế. Siêu và Mùi là một chuyện tình vui vẻ, mà cũng không hẳn hoàn toàn vui vẻ. Tôi chưa hề thấy một tình yêu nào mà người ta suốt ngày chỉ tươi cười hơn hớn. Thế nào cũng có lúc giận nhau. Hiểu lầm, tự ái, tổn thương. Thế nào cũng có người khóc. Nhưng nếu không phải thế thì sao gọi là cảm xúc thực. Mùi và Siêu lại không phải một cặp tình nhân theo nghĩa thông thường. Mùi chưa bao giờ được dịp bày tỏ lộ liễu tình yêu của mình, Siêu thì lừng khừng, tiến không tiến, lùi không lùi, thật là một anh chàng quá dễ ghét. Nhưng chính cái lừng khừng ấy làm nên không khí trí thức, vì trí thức nào mà chẳng lừng khừng? Chính cái không khí mơ hồ giữa hai người làm lên mùa thu của họ. Văn học Việt Nam trong một trăm năm qua đã sinh ra nhiều nhân tài, nhiều tác phẩm có giá trị, nhưng xét về cuộc đời, có lẽ Nhất Linh có một cuộc đời kỳ lạ hơn cả, bi thương hơn cả, gắn với lịch sử dân tộc hơn cả, đẹp hơn cả. Lừng khừng hơn cả. Vì vậy, ông là gương mặt của trí thức, chân chính và tự do. Khác với những tiểu thuyết ngày trước được gọi là tiểu thuyết luận đề như Đoạn Tuyệt, Nhất Linh còn có Xóm cầu mới là cuốn sách lạ lùng nhất, được viết với một văn phong khác những cuốn khác, diễn tả tài tình các chi tiết, những cảm xúc, nhưng lại không đưa ra những chủ đề rõ ràng. Chủ đề của Xóm Cầu Mới là gì? Chúng ta không thể gọi tên một cách rõ rệt. Cái phân vân, vương vấn ấy đâu phải chỉ là của Siêu và Mùi, là của thời đại, phản ánh tâm trạng của tác giả những ngày lưu lạc sang Tàu, những ngày tan tác, quyết định vào sống ở miền Nam tự do, rồi muốn thay đổi chế độ ấy cho tốt đẹp hơn, nhưng thất bại một lần nữa. Một người liên tiếp mất những người bạn thân thiết, những người cộng sự, từ Thạch Lam, đến Khái Hưng, từ Khái Hưng đến Hoàng Đạo, biết bao nhiêu người nữa. Nhất Linh nhìn thấy trước sự thay đổi của đất nước, sự chia đôi, thất bại, sự suy tàn của lý tưởng tự do, không khỏi rơi vào tình trạng yếm thế. Nhưng trong Xóm cầu mới tôi không thấy tính chất yếm thế ấy, chỉ thấy lòng yêu đời, sự vui sướng, nhẹ nhõm, cái hài hước dịu dàng. Quý thay, cái điềm đạm, tự chủ của tác giả. Quả nhiên, Nhất Linh không phải là một nhà chính trị, ông chỉ là một nhà cách mạng. Các nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn đều là những nhà cách mạng, xem việc hoạt động xã hội cũng như công việc văn chương, dù tài năng lớn, có thể đảm đương nhiều trọng trách, họ vẫn buông bỏ dễ dàng. Người làm cách mạng thực ra là những nghệ sĩ. Nhất Linh là một nghệ sĩ.
Người đọc dễ nhận ra khung cảnh trong Xóm cầu mới, vườn cây, hàng hiên, cảnh chợ búa phần nào mô phỏng từ trang trại Cẩm Giàng của gia đình Nguyễn Tường ngày trước. Vậy thì khung cảnh là một cái xóm nửa tỉnh nửa quê ở miền Bắc, tiêu biểu cho đời sống người dân Việt ngày ấy. Nhất Linh có thời kỳ, cuối những năm năm mươi thế kỷ trước, chơi hoa phong lan trên rừng, mê say đến nỗi coi như là một trong những việc quan trọng của đời mình. Xóm cầu mới có lẽ là hình ảnh của hai thứ: phố huyện Cẩm Giàng nơi ông lớn lên và giấc mơ bên tiếng suối reo những ngày Đà Lạt dưới bóng lan. Bên trong khóc mà bên ngoài cười, nhưng cái cười ấy không phải sự che đậy giả vờ mà là một lối sống. Đọc văn thì biết Nhất Linh hạnh phúc khi viết, những đoạn ông tả cảnh tả tình đều lộ vẻ vui thú, cái vui thú tinh nghịch của một người can trường, thông minh, nhân hậu, mặc cho cuộc đời sóng gió ngoài kia, một tấm lòng quyết không thay đổi. Đọc, tôi càng thấy tấm lòng của Nhất Linh lớn quá. Mà lớn không phải vì ông nói chuyện to tát gì, trong ấy toàn chuyện nhỏ thôi, chuyện của hai người thanh niên mới lớn, chẳng phải quốc gia đại sự gì, thế mà nhìn cái chăm chút của tác giả đối với từng chi tiết, cái hồi hộp của cô Mùi, cái đặt tay của Siêu lên bàn chân xinh xắn kia, thì đủ tỏ tấm lòng của ông đối với cuộc đời, sự sống, đối với cả bọn hậu sinh chúng ta.
Ít lâu nữa Mùi sẽ đi lấy chồng, có con và chàng cũng đi lấy vợ, ai người nấy hai cuộc đời riêng biệt hẳn, Siêu cảm thấy trước cái buồn của lòng chàng một hôm nào, độ mười năm sau chàng lại sẽ đến cái chợ này một mình, để có lại được cái tâm hồn chàng hiện nay và để buồn rầu một cách êm ái nhớ lại một hôm đã xa xôi ở đúng chỗ này lòng chàng đã rung động vì yêu Mùi. Siêu mỉm cười vì nghĩ đến có lẽ hôm đó chàng cũng không thể nào không nhớ đến cái cảnh Mùi chúi mũi nhìn vào cái bị giơ tay đo đo và cái tính đố ấy lúc đó chàng cũng chưa nghĩ ra.
Một lần đến Hà Nội, đi tìm nhà của nhà thơ Dương Tường ở sâu trong một cái ngõ nhỏ, hình như ngõ Phan Huy Chú, tôi đi lạc và dừng lại hỏi đường ở một cô hàng xén, vì vậy khi thăm xong ra về, tôi ghé hàng cô mua mấy cân trà Thái Nguyên để đem về Canada làm quà, giá hai trăm ngàn, nếu tôi nhớ không nhầm. Thời ấy mới đổi tiền, loại đồng tiền năm trăm ngàn có giá trị lớn. Tôi không quen dùng tiền mặt mà tiền loại mới dính chặt vào nhau vì vậy khi trả tiền tôi đưa cho cô hàng xén tờ giấy bạc năm trăm, cô thối lại ba trăm ngàn. Khi tôi đã đi xa rồi, tới đầu ngõ, cô bán hàng kia tất tả chạy theo, đem trả tờ giấy năm trăm thứ hai dính chặt vào mặt sau của tờ kia. Tôi lấy làm ngạc nhiên, tôi nghe mọi người nói rằng thời bây giờ người ta khác nhiều, buôn bán xảo trá, không còn chất phác thật thà như ngày trước, nhưng cô hàng xén trong cái ngõ nhà Dương Tường hôm ấy đã làm tôi thay đổi. Hay chính cô bé có đôi mắt đen láy, với cái tai lộ ra giữa mái tóc như một bông hoa lài mới nở kia chính là cô Mùi của Nhất Linh ngày trước, không biết cô vẫn ngồi bán hàng ở đó xưa nay, hay cô mới trở lại từ một thế giới xa xăm nào khác.
Nguyễn Đức Tùng
Nhà thơ Nguyễn Văn Trình |
Em về bên ấy
Nguyễn Văn Trình
Em về bên ấy chiều nay
một trời thương nhớ, heo may một trời
câu ca mái nặng chơi vơi
dòng sông như cũng rã rời, buồn tênh
Em về bên ấy nắng hanh
hay mưa nhòa nhạt, chân thành ngày xưa
em về buốt tím hoa mua
đường côi mấy nẻo, gió lùa hồn anh…
NVT
Rú cát Hải Lăng
Nguyễn Văn Trình
Chiều qua
rú cát Hải Lăng
chập chùng đồi cát
rú cấy um tùm (1)
cuối trời tít tắp chân mây
cát như bất tận, mịn màng dưới chân
con dốc dài dải cát
hoa dại khoe ven đường
hình như chiều xuống vội
hoàng hôn phía chân đồi
dấu chân chưa kịp bước
gió về lấp cả rồi
nao nao chiều rú cát
nhớ những năm còn giặc
nơi đây vùng ẩn nấp
cán bộ kháng chiến mình
đấu tranh giành độc lập
cho đất nước bình yên…
Chiều qua
rú cát Hải Lăng
cát nhiều như sa mạc
cuồng phong gieo thịnh nộ
thổi cát xây nên đồi
xương rồng kiên gan đứng
muôn sắc màu hấp dẫn
trắng, đỏ, vàng lung linh
tô thắm cả rú cát
đẹp thêm dưới chiều vàng
gửi hương bay trong gió
hạt cát dù nhỏ nhoi
nhưng cứng rắn, vững vàng
không bao giờ chịu lẫn
giữa rú cát mênh mông…
Chiều qua
rú cát Hải Lăng
mịn màng đồi cát trắng
rú cây xanh ngập ngừng
chiều về ngã bóng chân đồi
xa kia thấp thoáng, một vùng cỏ may
hoa may níu bước chân người
vấn vương chút cát, đi về nhớ thương
câu thơ viết vội, lời thề gió bay
người đi thổn thức ngóng trông
dấu chân trên cát cũng rồi vội tan
lòng ai trang trải cát vàng
trái tim rộn nhịp, bàng hoàng ngẫn ngơ…
2019
NVT
(1) Rú: Tiếng Hải Lăng, Quảng Trị, là rừng. Rú cây là rừng cây.
Nhà thơ Chu Vương Miện |
TRẠM GA CHÓT
Thơ Chu Vương Miện
“Tên tác phẩm tuyện ngắn của nhà văn Huy Phương”
Cha mẹ sinh mình không nghĩ “tựa”
Đời ta khi hết “bạt" về đâu?
“trang sách đời – Huy Phương"
-
chuyến tàu hoả xuyên việt
băt đầu khởi hành từ đâu?
và ngừng ở ga nào?
tuỳ thời gian của đất nước
khi thống nhất và khi bị chia cắt
tuy nhiên mỗi ngừơi trong chúng ta
cũng phải bị bắt buộc xuống 1 sân ga chót
là ga cuối cùng
kết thúc cuộc hành trình
của 1 kiếp làm cái con ngừơi
“không phải kiếp con ngợm"
có người vừa nói vừa cười bước xuống thơ thới
có người phải được vợ con cháu
xách nách dìu xuống mới xuống nổi
có người được khiêng xuống
kèm theo bộ sơ mi gỗ
y 100 hoa đua nở
muôn mầu muôn vẻ sặc sỡ
chả ai giống ai?
-
Các huynh trưởng đã có công
Dẫn tiểu đệ gia nhập hàng ngũ Cái Bang
Của tôn sư Hồng Thất Công
“trọn đời bị gậy" từ đầu thập niên 60
Huynh về với Thiên Chúa đầu tiên
Là nhà thơ Kiều Thệ Thuỷ đầu năm 80
kế là nhà văn bụi đời Nguyễn Thụy Long
vừa mới rồi là nhà thơ Tường Linh
riêng nhà biên khảo Tuệ Chương Hoàng Long Hải
thì không? chưa về
-
Thầy Huy Phương dậy cấp 2
Em học cấp 3
Cùng trường trung học Nguyễn Hoàng Quảng Trị
tuy là danh nghĩa thầy trò
Ngày ngày ra vào gặp nhau
Nhưng không ai dậy ai?
Và cũng không ai học ai?
Giữa năm 60
Khăn gói gió đưa lại gặp nhau ở Thủ Đức
Rồi sau 75 bèo dạt huê trôi
Lại lêu bêu gặp nhau bên cầu Khánh Hội
sau qua Mẽo
Cuột đời dâu bể bể dâu?
Thầy sanh năm 1937 tuổi Sửu
Em sanh năm 1941 tuổi Tân Tỵ
Thầy trên 8 bó
Em mi mí 8 bó chẵn
Ôi chuyến tàu hoả đời
Chạm chót
Thầy xuống trước
Hay em xuống trước
ai trước? ai sau?
Hay cùng 1 lượt
Chu Vương Miện