Phạm Xuân Dũng
PHÊ BÌNH SINH THÁI HAY THỜI SỰ VĂN
CHƯƠNG
(Nhân đọc cuốn sách “Rừng khô, suối
cạn, biển độc … và văn chương”, phê bình sinh thái của Ts Nguyễn Thị Tịnh Thy,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 2017.)
Năm 2017 có một tác phẩm nghiên cứu
phê bình văn chương không gây ồn ào nhưng lại được dư luận chú ý và được tái bản,
và điều này cũng có thể xem như một hiện tượng xuất bản trong lĩnh vực vốn được
coi nặng tính hàn lâm và thường khô khan, khó hiểu. Một điều lạ là tên gọi của
nó nghe qua lại quá ư báo chí nhưng tựu trung vẫn là thời sự văn chương, hay ít
ra cũng nhắc nhở về một thời sự mà văn chương nước ta cần hướng đến.
Cuốn sách hơn 500 trang với 4
chương chính. Chương một: “Các khái niệm tiền đề”, chương 2: “Văn học sinh
thái”, chương 3: “Phê bình sinh thái” và chương 4: “Thực hành nghiên cứu”.
Mặc dù phê bình sinh thái được
trình bày trước hết dưới góc nhìn học thuật nhưng tác giả chuyên luận này không
sa đà kinh viện mà luôn gắn tác phẩm của mình với đời sống xã hội, thậm chí nhấn
mạnh đến những vấn đề cấp thiết không chỉ là vấn đề thời sự của báo chí mà còn
là ( và phải là) thời sự của văn chương. Trong lời mở đầu “Lắng nghe trái đất”
người viết đã tâm sự : “ Việt Nam là quốc gia chịu ảnh hưởng trực tiếp của biến
đổi khí hậu. Ô nhiễm môi trường từ sinh hoạt và sản xuất đã, đang và sẽ là vấn
nạn, đại nạn đối với con người và vạn vật. Rừng khô, suối cạn, biển nhiễm độc,
cá chết, lũ lụt, hạn hán, vỡ đập, tràn bùn…liên tục ập đến như những mối “họa
vô đơn chí”. Vì thế, với động thái trách nhiệm và lắng nghe trái đất, nghiên cứu
văn học từ góc nhìn sinh thái học chắc chắn không phải là “thấy người ta ăn
khoai, mình vác mai đi đào”, cũng không phải thương vay khóc mướn, mà là công
việc cần làm, phải làm của người trong cuộc, thể hiện sự hồi đáp của khoa học
văn chương đối với tiếng kêu cứu của môi trường sinh thái” (Rừng khô, suối cạn,
biển độc… và văn chương, trang 17)
Bởi là một chuyên luận, hơn thế,
còn là một chuyên luận về địa hạt khá mới mẻ đối với văn chương Việt Nam nên
tác giả đã trình bày có thứ tự, lớp lang để người đọc có điều kiện tìm hiểu về
văn học sinh thái một cách bài bản và cơ bản, tránh được những quan niệm thô giản
về sinh thái cũng như văn học sinh thái. Chẳng hạn như cho rằng người Á Đông vốn
có truyền thống yêu chuộng thiên nhiên nên thuận lợi trong việc bảo vệ môi trường
sống trong lúc đó lại đang là vấn nạn lớn đối với nhiều nước đang phát triển ở
khu vực này, trong đó có Việt Nam. Cũng theo tác phẩm này thì văn học sinh thái
chính thức ra đời khoảng thập niên 70 của thế kỷ XX. Chức năng cảnh tỉnh của
dòng văn học này được đặt lên hàng đầu “ để cảnh báo nhân loại cần thay đổi
phương thức sống, thay đổi quan niệm về giá trị, quan niệm về tự nhiên. Bởi vì
nguy cơ sinh thái không chỉ là nguy cơ môi trường mà còn là nguy cơ đạo đức,
nguy cơ tư tưởng và nguy cơ văn hóa.”(trang 80, sách đã dẫn). Hay khi bàn về một
đặc trưng rất quan trọng của tác phẩm văn học sinh thái chính là sư kết hợp giữa
khoa học và văn học, tác giả lý giải : “ Văn học sinh thái có sự kết hợp giữa
tính khoa học của thể loại phi hư cấu và tính văn học của loại hình nghệ thuật
ngôn từ. Tính khoa học thể hiện những kiến thức của nhà văn về thế giới tự
nhiên. Qua tác phẩm, độc giả hiểu biết nhiều hơn về thế giới mình đang sống, hiểu
biết để trân quý, yêu thương và bảo vệ. Đó là con đường đi từ lý trí đến tình cảm
của “tính khoa học”. Đồng thời con đường đó cần phải có những nhịp cầu thẩm mỹ
của thi pháp văn chương, nghĩa là tính văn học, thể hiện văn tài của tác giả và
tạo nên sức hấp dẫn, sức thanh tân cho tác phẩm văn học sinh thái” (trang 95,
sách đã dẫn). Cuốn sách còn cung cấp cho người đọc nhiều kiến thức nhập môn cần
thiết về văn học sinh thái còn mới mẻ không chỉ với độc giả phổ thông như : triết
học sinh thái, chủ nghĩa nữ quyền sinh thái, thần học sinh thái, mỹ học sinh
thái và tất nhiên cả phê bình sinh thái. Tác giả đã diễn giải một cách dễ hiểu
nhiều điều được coi là khó hiểu nên người đọc thuận lợi trong tiếp nhận.
Dù phần học thuật thiên về lý luận
đã được người viết cố gắng trình bày mạch lạc, sáng sủa và dễ hiểu nhưng tác giả
vẫn dành hơn 200 trang sách để phê bình tác phẩm cụ thể trong chương 4: “Thực
hành nghiên cứu”nhằm minh họa sinh động một số cảm thụ văn chương dưới góc độ của
người làm nghiên cứu phê bình. Đây là động thái cần thiết, bởi văn học sinh
thái còn khá lạ lẫm đối với nhiều độc giả, kể cả những người thường xuyên có
quan hệ với văn chương. Hơn nữa, nói như nhà phê bình Đỗ Lai Thúy trong lời giới
thiệu cuốn sách : “Chuyên luận phê bình sinh thái của Tịnh Thy giới thiệu khá đầy
đủ về lý thuyết, nguồn gốc, phát sinh , phát triển, sự khác nhau về các quan niệm,
quan điểm của phê bình sinh thái. Điều đó rất cần nhưng chưa đủ. Bởi tỳ vị người
Việt vẫn chưa quen với lý thuyết thuyết chay và chỉ dễ tiếp nhận khi lý thuyết ấy
được hóa thân vào sự thực hành phê bình tác phẩm.”(trang 9, sách đã dẫn)
Khi vận dung lý thuyết phê bình
sinh thái, tác giả đã chỉ ra những đóng góp quan trọng của nhà văn Trần Duy
Phiên qua tác phẩm của mình. Bộ ba truyện ngắn vừa độc lập vừa liên hoàn trong
tính tương đồng của “Mối và người”, “Kiến và người” và “Nhện và người” của ông
đều có chung một motif con người đối nghịch với thiên nhiên. Nhân vật chính chỉ
muốn thống trị thiên nhiên, muốn ăn thua đủ với với cả những con vật bé nhỏ như
mối, kiến và nhện theo một quan niệm thiên lệch ăn sâu vào xương tủy của người
phương Đông : “Con người là chúa tể của muôn loài”. Thay vì sống hòa thuận với
tự nhiên, nương tựa vào tự nhiên thì trái lại, họ chỉ muốn chế ngự, chà đạp bằng
mọi giá. Rốt cuộc, những nhân vật được cho là có khả năng, tài trí đã thất bại
trước những sinh vật nhỏ nhoi nhất. Những kết thúc dù bi kịch hay hài kịch đều
cho thấy sự cần thay đổi quan niệm sống của những con người này, ở đây là với
thế giới tự nhiên. Theo nhà phê bình thì những biện pháp nghệ thuật từ chuyện đặt
tên tác phẩm theo mệnh đề “A và B” tạo quan hệ đẳng lập, hơn thế, việc để các
con vật được đặt ở trước trong nhan đề truyện ngắn còn có mục đích đề cao vai
trò tự nhiên; rồi bút pháp “đòn bẩy” lúc đầu tán dương sau “hạ bệ” vị trí những
nhân vật chính vốn không chịu thua mọi thứ, kể cả với côn trùng; giọng tự sự đa
thanh, đối thoại đã đạt đến tầm diễn ngôn của tư tưởng sinh thái là những điểm
đặc sắc của các truyện ngắn này. Tiểu kết sau là một nhận định rất thẳng thắn
và thời sự cần được lưu tâm đúng mức: “Với Kiến và người, Mối và người , Nhện và
người, nhà văn Trần Duy Phiên đã mang đến cho người đọc những tác phẩm văn
chương đích thực. Trong bối cảnh văn học nước ta gần như đang bàng quan trước
những tổn thất do thiên tai, những hành động tàn phá môi trường mà cả dân tộc
và nhân loại đang phải đối mặt và gánh chịu, những tác phẩm trên của Trần Duy
Phiên thật cần thiết và có ý nghĩa. Chúng đáp ứng được tính tất yếu và tính cấp
thiết, đáp ứng yêu cầu thời đại, cảm thức thời đại, thể hiện sự gắn bó thiết thực
đời sống văn chương với đời sống xã hội, phát huy trách nhiệm của nhà văn trong
việc bảo vệ môi trường và ngăn chặn nguy cơ sinh thái” (trang 296, sách đã dẫn)
Tiểu thuyết “Trăm năm còn lại”
cũng của Trần Duy Phiên lại là sự thể hiện tính man rợ, độc ác đến mức “rừng
rú” của những con người thực chất là ác nhân của ba thế hệ trong một gia đình sống
ở nơi thâm sơn cùng cốc. Họ tàn bạo với thú tính gần như không giới hạn trong
việc ăn tươi nuốt sống thiên nhiên. Nhân nào quả nấy, thủ phạm cũng là nạn nhân
khi kết thúc tác phẩm. Nhà phê bình đánh giá : “Tiên phong, tài hoa, cá tính, lạnh
lùng, dữ dội và bạo liệt, Trần Duy Phiên đã mang lại cho văn đàn một tiểu thuyết
sinh thái đích thực, đầy hấp dẫn và rất có giá trị. Dồn nén đời sống, đời suối,
đời núi, đời người ngập tràn thù hận, “tội ác và trừng phạt” vào trong khoảng
250 trang viết, từ góc nhìn sinh thái, Trăm năm còn lại mở ra một chiều kích
cho việc sáng tác và tiếp nhận trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay…” (trang
316,317 sách đã dẫn)
Nhà phê bình còn dành nhiều công
phu trong việc phán tích một tác phẩm đa thanh, phức hợp của văn học đương đại
Trung Quốc, đó là tiểu thuyết “Tôtem sói” của nhà văn Khương Nhung. Tên gọi tiểu
thuyết đã như mặc định quan niệm vật linh luận qua một sáng tác văn chương kỳ
vĩ, ngợi ca “tính cách sói” như một sức mạnh tinh thần độc tôn của thảo nguyên
Mông Cổ và suy rộng ra của cả Trung Hoa. Đây là tác phẩm cũng đã gây nhiều
tranh cãi. Dưới góc nhìn phê bình sinh thái, nhà phê bình nhận định về tác phẩm:
“ …mang đậm đặc trưng tam hiếu của Trung Quốc: hiếu sử, hiếu sự, hiếu kỳ. Chất
lịch sử, chất sự kiên, chất kỳ ảo ngập tràn trong tác phẩm được mệnh danh là một
kỳ thư này. Chính liên văn bản đã tạo nên một cuộc đối thoại lớn giữa quá khứ
và hiện tại như là sự đối lập giữa thiêng liêng và phỉ báng, sinh trưởng và tàn
lụi, sở hữu và đánh mất trong quốc dân tính của Trung Hoa. Đánh mất sói tính,
khinh rẻ dân du mục là vong bản, là quên cả tổ tiên…”(trang 411, sách đã dẫn).
Tuy vậy, tác phẩm này không chỉ tiểu thuyết sinh thái mà nó còn có dụng ý đề
cao thái quá bản tính sói, cổ xúy cho tư tưởng bá quyền. Chính vì vậy, nhà phê
bình có một lưu ý quan trọng: “ Và với tư cách là người đọc nghiên cứu, chúng
tôi nhận thấy mình có trách nhiệm tham gia vào cuộc đối thoại này, thể hiện
quan điểm không đồng tình với Khương nhung, đặc biệt là lập luận : “ Thảo
nguyên tàn khốc và đẹp đẽ không chỉ là đất tổ của dân tộc Hoa Hạ mà còn là đất
tổ và cái nôi của toàn nhân loại”. (trang 415, 416, sách đã dẫn). Sợ mình chưa
nói hết ý, tác giả còn nhấn mạnh thêm một điều rất đáng suy ngẫm cho chính hôm
nay : “Đó chính là lý tưởng bảo vệ sinh thái thâm trầm và huyền nhiệm phương
Đông của Tôtem sói. Tuy nhiên những khẳng định của Khương Nhung về mối liên
quan giữa “tình thần sói”, “tính cách sói” và các dân tộc mạng sói tính cũng
như con đường chấn hưng tinh thân dân tộc của Trung Quốc lại làm nảy sinh thêm
một kiểu một kiểu đối thoại nữa chưa đến hồi kết. Đó là đối thoại cần có sự
tham gia của chính kiến và sự phản biện của người đọc.”(Trang 417, sách đã dẫn)
Nhà phê bình Nguyễn Thị Tịnh Thy
còn phân tích cuốn tiểu thuyết “Thập giá giữa rừng sâu” của nhà văn Nguyễn Khắc
Phê và thơ Haiku (Nhật Bản) cũng dưới góc nhìn văn học sinh thái với nhiều ý kiến
xác đáng và thú vị.
Trong điều kiện văn học đương đại
Việt Nam vẫn còn thiếu vắng các sáng tác văn học sinh thái cũng như thưa thớt
và chưa có hệ thống nghiên cứu lý luận phê bình về dòng văn học này thì cuốn
sách của tác giả Tịnh Thy trong chừng mực nhất định cũng xứng đáng được coi là
một cơn mưa đúng lúc( “cập thời vũ”), góp phần kích hoạt sáng tạo trong văn học
sinh thái; công trình này là một cuốn cách công cụ kịp thời, dễ đọc và đáng đọc
về sinh thái và văn học sinh thái. Đây, như chúng tôi đã nhấn mạnh, cũng là vấn
đề thời sự xã hội, thời sự của báo chí mang tầm phổ quát nhân loại. Và đó cũng
là câu chuyện của những người trí thức, những người cầm bút kể cả trong và
ngoài văn chương. Để kết thúc bài viết này, xin nhắc lại câu nói của một người
thầy như một chia sẻ thời cuộc, đương nhiên không ngoại trừ văn chương : “Hãy lễ
độ với thiên nhiên !”
***
Ts Nguyễn Thị Tịnh Thy hiện
là giảng viên Khoa Ngữ Văn, ĐHSP Huế, tác giả và đồng tác giả của nhiều tác phẩm
nghiên cứu phê bình văn học, có thể kể ra:
-Tự sự kiểu Mạc Ngôn, NXB Văn học-Trung
tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội,2013 (tác giả)
-Văn học hậu hiện đại-Lý thuyết và
thực tiễn, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2013 (Đồng tác giả)
-Phê bình văn học hậu hiện đại Việt
Nam, NXB Tri Thức, Hà Nội, 2013 (Đồng tác giả)
-Văn học và ngôn ngữ-Một số vấn đề
nghiên cứu và giảng dạy, NXB Thuận Hóa, Huế, 2007 (Đồng tác giả).
PXD
*****
Bài đã đăng trên Nguyệt san Báo QUẢNG TRỊ tháng 3/2018.
No comments:
Post a Comment