Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Thursday, November 30, 2017

CHÙM THƠ CUỐI NĂM CỦA LA THỤY



                                 Tác giả La Thụy



TỰ CẢM CUỐI NĂM   

Dặm trường rong ruổi ngựa phi
Thời gian vút cánh xuân thì hanh hao
Chồn chân dừng bước bên cầu
Lặng nhìn nước chảy nuối màu tóc xưa
Cánh buồm lộng gió ước mơ
Băng qua sông biển cập bờ nơi nao?
Vọng âm sóng vỗ dạt dào
Bên chiều đông tận nắng đào dần phai
Hoa tóc sương muối đang cài             
Tàn niên tự cảm thoảng bay tiếng lòng 

VÔ THƯỜNG   
(Cảm khái khi đọc truyện thần thoại Hy lạp) 

Một thời vang bóng còn đâu
Khói sương chừ lại úa màu thời gian
Một thời xuân sắc nhựa tràn
Nhành xanh biếc lộc, hoa vàng thắm cây
Nắng chiều xế bóng hao gầy
Xiêu theo triền dốc ngấm say vị đời
Tiếng lòng ngân vọng chơi vơi
Âm xưa bóng cũ mù khơi dấu tìm

DƯỜNG NHƯ 

Dường như bóng xế đường trần
Dường như cuộc sống thanh bần rồi qua 
Dường như tóc muối sương pha
Dường như phấn bảng đã là vọng âm
Bên chiều một thoáng trầm ngâm...
  
KHÔNG ĐỀ

Hoàng hôn bảng lảng chơi vơi
Vẳng ngân âm vọng một thời xanh rêu
Ta xin lượm chút bóng chiều
Nhen cho hoài niệm dáng kiều xa xăm
Ờ sao thi tứ biệt tăm...

                                       LA THỤY

READ MORE - CHÙM THƠ CUỐI NĂM CỦA LA THỤY

CUỘC GẶP GỠ ĐỊNH MỆNH GIỮA YẾN LAN VÀ HÀN MẶC TỬ - Hồi ký của Lâm Bích Thủy


   


  CUỘC GẶP GỠ ĐỊNH MỆNH 
        GIỮA YẾN LAN VÀ HÀN MẶC TỬ

Tôi không tin tạo hóa sinh ra trái đất thì đấng thiêng liêng tối cao nào đó định cho  chỗ này là địa linh nhân kiệt, chỗ kia là đất dữ. Nhưng tôi lại tin lời người xưa nói “nếu có duyên với nhau thì sẽ tụ lại”.  Nói đâu xa; đấy chính Bình Định quê tôi là đất của sự tụ nhân, tụ thủy, là địa linh nhân kiệt với danh xưng là “Đất võ trời văn” thật 100% . Được như vậy người Bình Định luôn mang ơn sự đóng góp nhân tài từ các tỉnh bạn như Nghệ An với họ Hồ đã đưa người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ - Quang Trung; quê Hà Tĩnh với duyên kỳ ngộ cha Đàng Ngoài mẹ ở Đàng Trong đã cho quê tôi nhà thơ tình  Xuân Diệu”; và cảm ơn đất Quảng Trị đã đưa đến một Chế Lan Viên với những sáng tạo mới mẻ, hiện đại nhất trong bút pháp". Cảm ơn đất Quảng Bình đã tặng một Hàn Mặc Tử để rồi có cuộc gặp gỡ giữa ba tôi - nhà thơ Yến Lan và Hàn Mặc Tử định mệnh làm nên nhóm thơ “Bàn Thành tứ hữu” đã mang đến những giá trị nhân văn sâu sắc làm rạng danh cho quê hương Bình Định

Cuộc gặp gỡ đó theo lời kể của ba tôi (nhà thơ Yến Lan) như sau:
- Một sáng chủ nhật, khoảng giữa năm 1930, tôi đang chép lại bài thơ mới làm hôm qua, thì nghe tiếng gọi ngoài cổng chính. 
 Tôi nghĩ: chắc là có khách lạ muốn đến thăm đền (vì người quen tất phải biết ngõ phụ luôn mở rộng ở phía Bắc của góc tường thành) Tôi bước ra, nghe tiếng của hai trang nam tử. Biết là người xa đến vãn cảnh, tôi chào, rồi chỉ hướng cho họ vào đền. Khách mặc âu phục sang trọng: Một, hơi lớn tuổi, nói giọng Bắc, rất chỉnh tề trong bộ Tropical, một là thanh niên mặc nguyên bộ tơ De-ligaon, đội mũ Panama. Đang đi, người trẻ tuổi bỗng ngoặc sang phải, lối hàng rào chè, rẽ sang một góc sân. Ở đó có cây lựu lớn đang nở hoa đỏ rực. Anh níu bẻ một nụ rồi tặng cho người bạn đồng hành, miệng đọc câu Kiều:

Ngoài hiên quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lè đơm bông

Rõ ràng là những vị khách thuộc loại hào hoa, ít gặp ở đây. Vừa lúc ấy cha tôi bước ra, hướng dẫn họ đến bên tấm bia đá và mở cửa mời vào chính điện. Tôi trở lại tràng kỷ, làm tiếp công việc bỏ dở.  Được một chốc hai người đi xuống. Cha tôi đưa họ vào nghĩa tự, mời ngồi trên tràng kỷ và đưa mắt bảo tôi xuống nhà lấy bộ bình trà bằng sứ chuyên dùng tiếp khách quí. Có lẽ tờ giấy mà tôi còn bỏ ngỏ trên bàn có những dòng chữ và cách trình bày giống dạng một bài thơ đã làm cho người trẻ tuổi chú ý. Anh hỏi tôi:
- Cậu đang chép thơ à? Tôi bẽn lẽn gật đầu:
 - Dạ, vâng.
- Thơ của bác hay thơ của cậu đấy?
- Dạ thơ của tôi. Im lặng một chốc, anh lại hỏi:
- Cậu làm thơ lâu chưa? Đã đăng ở đâu chưa?
- Tôi mới võ vẽ, cũng có bài được đăng báo.
- Cậu lấy bút danh là gì?
- Tôi ký Xuân Khai. Người trẻ tuổi vui hẳn lên, anh cười:- Vậy tôi với cậu là đồng nghiệp với nhau. Xin tự giới thiệu, tôi là Phong Trần, là Hàn Mặc Tử. Anh quay sang người trung niên, vẻ quí trọng: 
- Vị này là nhà văn, tác giả “Kép Tư Bền”, tập truyện ngắn vừa mới xuất bản đang được cả nước hoan nghênh. Tôi thốt lên một tiếng “À” vui vẻ:
- Hóa ra ông là nhà văn Nguyễn Công Hoan. Tôi đã đọc và đã biết nhiều về ông, nhất là trong cuộc bút chiến với báo Phong Hóa, Ngày Nay về tập chuyện dài “Lá ngọc cành vàng “của ông 
  Lúc ấy nhà văn Nguyễn Công Hoan như tự nhiên có thêm những cảm xúc không ngờ. Ông nhìn tôi một cách trìu mến.
 Hàn Mặc Tử thì gật đầu thích thú, anh tiếp lời:
- Nhân đây ông làm một cuộc viễn du từ Bắc vào Nam để tạ lòng ủng hộ của tác giả mà mình hâm mộ. Hôm nay tôi đưa ông lên thăm một vài cảnh đẹp ở đây, rồi sẽ lên Phú Phong, mảnh đất lịch sử của quê ta. Nhân dịp này ta làm quen với nhau vậy. Tôi đang sống với gia đình tại 20 đường Khải Định-Qui Nhơn. Có đi Qui Nhơn mời cậu ghé chơi, chúng ta là đồng nghiệp với nhau mà.
 Chúng tôi gắn bó với nhau từ buổi ấy. Tôi kể chuyện này với Chế. Chế cho biết đã quen với Tử rồi và cũng muốn có dịp nào đó sẽ giới thiệu tôi với anh.
  Sống giữa lòng Bình Định, những chiều hiu hiu nắng quái, tôi và Chế Lan Viên thường lên lầu cửa Đông mà hai đứa tôi gọi là lầu tư tưởng, phóng tầm mắt nhìn bao quát thị trấn, rồi vọng đến những chân trời xa tắp, lòng ngậm ngùi cho mảnh đất quê hương đã trải qua lắm cuộc đổi thay. Có lúc chúng tôi nghĩ xa hơn đến các triều đại của quá khứ, từng nối tiếp nhau đến sự thăng trầm biến thiên của lịch sử, rồi bàn nhau cùng viết về cảnh điêu tàn, những cuộc đời dâu bể. Hoan đi sâu vào sự đau thương, tàn tạ, thịnh vượng, làm sống lại những lễ hội, sinh ca của các hệ tộc quyền quí, rồi binh biến máu lửa thay cho một thuở thanh bình. Tập thơ của Chế, tên “Điêu tàn”.

  Thành Đồ Bàn cũng thôi không nức nở
Trong sương mờ huyền ảo lắng tai nghe

        Từ một làng xa xôi bao tiếng mõ
Tan dần trong im lặng của đồng quê...

   Tập thơ của tôi là “Giếng loạn”. Nghe tôi đôi lần đề cập đến “Giếng loạn” Tử rất muốn xem (lúc này anh đang bệnh). Tôi mang xuống cho anh. Khoảng một tuần sau, Tử đưa trả bản thảo và nói:- Tôi đã xem hết tập thơ rồi. Có một số xúc cảm nên cố làm một bài riêng tặng cậu. Anh lấy ở túi áo ra trao cho tôi và trân trọng nói: - Đây cứ coi như một bài bạt sơ khảo; mà tôi thấy cái nhan đề không ổn. Sao cậu không viết là “Giếng lạng” lại viết là “Giếng loạn”? Tôi đáp: “Có vấn đề về ngôn ngữ tôi muốn thảo luận với anh đấy.” 
  Rồi tôi và Tử bàn nhau hồi lâu, sau cùng thống nhất là “Giếng loạn”. Loạn ở đây là loạn lạc, đầy đủ ý nghĩa hơn, lạng là bỏ hoang. Bài thơ Tử tặng tôi chính là bài “Trăng tự tử” mang dáng dấp của một bài bạt cho cả tập thơ. Tôi đã có chủ ý sẽ in nó vào tập “Giếng loạn” khi xuất bản. Nhưng bản chép tay ấy với cả tập thơ bị thất lạc, lúc đi sơ tán, ngày Pháp mở chiến dịch Át-lăng đánh vào Qui Nhơn. Bản in trên các sách hiện nay là bản lưu từ trong xấp di cảo do anh Quách Tấn giữ.
  Buổi sáng hôm ấy, tôi nhớ dường như sáng 28 Tết âm lịch, năm 1938. Tôi và Chế Lan Viên đến thăm anh. Khi ấy bệnh Tử đã nặng! Mới bước vào cổng nhà, tự dưng tôi có cảm giác căn nhà hiu quạnh quá. Thấy chúng tôi, mẹ Tử bước ra thềm hè, rơm rớm nước mắt:
   -Trí đi rồi các anh à! Cò bót không cho nó ở nhà nữa, vì sợ lây bệnh, bắt phải đưa vào Qui Hòa, Tết nhất đến nơi rồi, nếu đưa nó vào trong ấy thì tội lắm. Nhà cập rập quá, nên lén gửi tạm nó vào trong xóm Động. Các anh có đi thăm thì em Hành đưa đi. Nó vừa chạy đâu đó.

 Đợi lâu không gặp Hành, hai đứa tôi hỏi thăm vào xóm Động. Đấy là cái xóm nhỏ của những người lao động nghèo, nằm trên một bãi cát rộng mênh mông, khoảng khu VI, Qui Nhơn bây giờ. Nhà ở chỉ là những túp lều dựng tạm bợ trên cát, không có nền. Đồ đạc, giường, tủ, bàn, ghế cứ đặt nguyên trên cát. Đường đi vào cũng quanh quất cơ hồ khó tìm ra.
   Chúng tôi vào một cái chòi lợp tranh nhỏ hơn một cái chái bếp. Nóc chòi được chống lên bằng hai cây cột tre. Một tấm phên ngắn dọc theo chiều dài của nóc, ngăn chòi làm hai: nửa trước sinh hoạt bình thường, nửa sau hình như có đặt một chiếc chõng tre với lỉnh kỉnh những thúng mủng..
  Trước tấm phên là cái bàn ọp ẹp, chỉ còn lại một chân trước nối với một khúc củi đẻo từ chảng ba, hai chân sau cột vào hai cọc tre chống mái nhà, Tử đang ở trong ấy (đây là nhà của một phu kéo xe). Nghe tiếng chúng tôi, Tử chậm rãi bước ra, vẻ mệt nhọc:
     - Hai cậu vào tới đây sao…? 
Hoan và tôi ngồi trên ngạch cửa làm bằng một khúc tre, xoay lưng ra ngoài, trò chuyện với anh. Tử gầy, trông hốc hác lắm   Anh không vui như mọi khi.
  Đang nói chuyện thì có bà cụ đem cho anh hai quả keo chín, Tử nhìn hai đứa tôi:- Thứ này mình thích lắm. Mấy năm còn khỏe, mình thường xách ná cao su đi bắn. Có khi đạn rớt vào nhà Tây, mình ba chân bốn cẳng chạy nhanh như sóc. Thế mà bây giờ .!.Anh thở dài.  
  Chúng tôi nói chuyện cho tới giờ tan tầm, thì có một bé trai xách làn cơm vào (chắc là em Hành) Khi cái xách cơm đặt nghiêng nghiêng trên bàn, em lẫn ra phía sau. Tử vẫn giữ cái vẻ thản nhiên, gợi thêm một vài ý nhỏ về thi ca sách vở. Sợ anh mệt và cũng quá giờ chúng tôi đứng lên tạm biệt. Tử nhìn, đôi mắt anh buồn vời vợi
 Sau này, mới biết sau cái Tết ấy, gia đình còn cố giấu anh ở mấy nơi nữa rồi mới vào Qui Hòa.
  Khi Tử mất, mỗi lần nhớ tới anh, tôi lại ngậm ngùi đọc “Những giọt lệ” của anh

Trời hởi! Bao giờ tôi chết đi
Bao giờ tôi hết được yêu vì
Bao giờ mặt nhật tan thành máu
Và khối lòng tôi cứng tựa si?

Họ đã xa rồi khôn níu lại
Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa
Người đi, một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ

Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?
Ai đem tôi bỏ xuống trời sâu
Sao bông phượng nở trong màu huyết
Nhỏ xuông lòng tôi những giọt châu!

Tôi không biết anh viết bài thơ này để nói đến một tình huống nào. Có người bảo là anh viết để than thở về một mối tình trong bao nhiêu mối tình dang dở của mình. Nhưng tôi cứ nghĩ cảm xúc đó bắt nguồn từ buổi sáng hôm ấy, buổi sáng mà tôi và Hoan còn ngồi bên Tử, trong túp lều đơn sơ ở xóm Động… 
  Quả thật tôi không ngờ, lần chia tay ấy là lần vĩnh biệt.
(Theo lời kể của ba tôi)

                                                      Lâm Bích Thủy

READ MORE - CUỘC GẶP GỠ ĐỊNH MỆNH GIỮA YẾN LAN VÀ HÀN MẶC TỬ - Hồi ký của Lâm Bích Thủy

Wednesday, November 29, 2017

SÔNG TRĂNG -thơ Hoài Hương, nhạc Ái Hoa, hòa âm Võ Công Diên, trình bầy Minh Thảo

READ MORE - SÔNG TRĂNG -thơ Hoài Hương, nhạc Ái Hoa, hòa âm Võ Công Diên, trình bầy Minh Thảo

PHONG NGUYỆT - Thơ Ngũ ngôn (tiếp theo) - Mặc Phương Tử




PHONG NGUYỆT
                                     Thơ Ngũ ngôn (tiếp theo)


1.- Diệu Pháp nào?

Không từ nơi nguồn cuộc sống
Muôn trùng khổ đế thậm thâm
Cành lau nghiêng chiều thực-mộng
Cành lau trắng trời diệu tâm.

2.- Vằng trăng nào?

Giữa ao trời diễm tuyệt
Huyền diệu mười phương mây
Vẫn tròn gương cổ nguyệt
Cõi thơ, cõi Phật nầy.

3.- Cái nhìn

Đốt cháy niềm đau khổ luỵ
Buông tay cuộc hẹn ta bà
Đêm trở bừng cơn mộng tuý,
Chòi khuya nghiêng ánh trăng tà.

4.- Trăng đoàn viên

Lung linh vầng nguyệt cổ
Ngàn sông thoáng hiện trăng
Vẫn RẰM - tròn muôn thuở
Huyền diệu ánh tơ vàng.

5.- Dặm xưa

Bỏ lại dấu chân nguyên thuỷ
Mấy mùa mây trắng trôi xa
Sương đọng chiều hôm mộng mị
Đầu non quang ánh trăng ngà.

6.- Cuối ngàn

Đêm sắm tuồng dâu bể
Sương đọng ngoài hiên trăng
Thêu dài thêm mộng mị
Lạc vầng mây cuối ngàn

7.- Canh trường

Đá mòn phơi lối cũ
Sương rụng nẻo tà dương
Chim về non xanh ngủ
Vầng nguyệt sáng canh trường.

8.- Vẫn nguyên Rằm

Âm vang lời cát sỏi
Tình tự thuở ngàn năm
Theo hoài vầng trăng cổ
Lòng trăng vẫn nguyên Rằm.

9.- Tình trăng sao

Đầy vơi trà mấy bận
Thế sự tuồng lao xao
Mây trắng đường vô tận
Thức-ngủ tình trăng sao.


10.- Tam thiên tụng

Bài kinh tam thiên tụng
Ý kinh vi diệu lời
Cỏ hoa bừng cơn mộng
Mây trắng đầu non trôi.

11.- Rừng Sala

Bình minh thức,
mây lành nổi
Bóng nghiêng vàng sắc cà sa
Thế giới ba ngàn tụ hội
Bình yên theo từng sát na.

12.- Nỗi niềm

Khởi đi từ bao thuở
Qua mấy nẻo hoàng hôn
Chút nắng còn tạm bợ
Phong kín dấu rêu cồn.

13.- Vai gầy

Quảy lên vầng nhật nguyệt
Ngược xuôi chiều gió sương
Nhẹ tênh hồn dâu bể
Nhẹ tênh gánh vô thường.

14.- Sầu rụng

Trái sầu thiên cổ luỵ
Sầu rụng, mấy tiêu dao
Vo tròn cơn mộng tuý
Về ngủ dưới trăng sao.



                                 MẶC PHƯƠNG TỬ
READ MORE - PHONG NGUYỆT - Thơ Ngũ ngôn (tiếp theo) - Mặc Phương Tử

ÁO TÍM BÀ BA - Thơ: Võ Tấn Hùng



ÁO TÍM BÀ BA

Ngỡ ngàng
áo tím bà ba,
Nghiêng nghiêng
Vành nón
Con phà
Cổ Chiên.
Mắt cười lúng liếng
thêm duyên
Bờ vai tóc xõa
thôi miên
Lữ hành.
Sông dài dờn dợn
mây xanh.
Biệt tăm cá lội
Mong manh
Kẻ chờ!

Bình Định, 26.11.2017.

Võ Tấn Hùng
READ MORE - ÁO TÍM BÀ BA - Thơ: Võ Tấn Hùng

GIẤC MƠ HOA - Thơ: Trương Thị Thanh Tâm

Tác giả Trương Thị Thanh Tâm


Giấc Mơ Hoa 
Thơ: Trương Thị Thanh Tâm 
                
Anh giết đời tôi, trong đêm cùng ...
                                nguyệt tận 
Tôi giết đời anh, trong một phút...
                                sa chân 
Trăng đã lặn, tình ta còn non nớt 
Chút díu dan, kết tụ những đêm vàng 

Anh ngơ ngẩn, tôi thẩn thờ...
                               thương nhớ 
Một mảnh tình, chút xíu đã vội tan 
Sao anh, cứ dùng văn từ hoa mỹ 
Cho đời tôi, lấm tấm giọt sương đêm 

Sao anh lại để rơi... từng chữ cuối 
Cho tôi yêu,
            chẳng thèm ngoảnh lại...tìm người 
Anh đã chọn, sao trái tim còn,
                           ngờ vực 
Bướm ong, sao cứ tụ lại...
                          những hương hoa 

Cơn gió đến, cho tôi oằn nỗi nhớ 
Để một chiều...
                       tan tác giấc mơ hoa!

                         T.T.T.T.
                        Mỹ Tho


READ MORE - GIẤC MƠ HOA - Thơ: Trương Thị Thanh Tâm

CHIỀU MƯA NHA TRANG - thơ Trúc Thanh Tâm



CHIỀU MƯA NHA TRANG

 Biển nói gì nhỏ nhẻ
 Mà dào dạt lạ thường
 Mình nói gì, em hỡi
 Sao lòng đầy tơ vương

 Sóng bạc đầu như thể
 Ngàn đời chưa nguôi yêu
 Trần gian chưa tận thế
 Lo gì, mình xa nhau

 Gió ru vào lạc lõng
 Kéo hồn ta mênh mông
 Người đi buồn xa vắng
 Bên kia phố chưa chồng

 Tìm đâu hương, nắng cũ
 Nha Trang chiều mưa lơi
 Mình gặp nhau dẫu muộn
 Nhưng mặn mòi, em ơi!

  Nha Trang, 12/2011
 TRÚC THANH TÂM

 (Châu Đốc)
READ MORE - CHIỀU MƯA NHA TRANG - thơ Trúc Thanh Tâm

HOA HỒNG - Chùm ảnh của Chu Vương Miện







READ MORE - HOA HỒNG - Chùm ảnh của Chu Vương Miện

MÙA XUÂN NÀO ĐÃ ĐI QUA / DÙ SAO TA CŨNG CÁM ƠN EM / SAU MƯA NGỒI NHẬU MỘT MÌNH - Chùm thơ Lê Thanh Hùng



MÙA XUÂN NÀO ĐÃ ĐI QUA

Xem ti vi, thấy gương mặt hao hao
Của người đàn bà, cắn môi bật khóc
Trong tàn chiều, ngồi một mình cô độc
Bên hiên nhà, dưới vòm lá xanh xao
                        *
Đắm chìm trong chiếc bóng của riêng mình
Lặng lẽ ngước nhìn ti vi đang nói
Hình như ngoài kia, có ai đang gọi
Cây lá trong vườn, đứng gió lặng thinh ...
                        *
Chiều cuối năm, bóng nắng trãi mênh mông
Người đàn bà qua những ngày trận mạc
Ngồi bên ti vi, chương trình đang hát
Lẩm bẩm lần theo “Tải đạn, qua sông” ...
                        *
Có một dòng sông, dạt bến xuân thì
Cây sung trắng gốc, một thời con gái
Đội hình đi qua sao còn ngoảnh lại?
Rớt những tiếng cười, sông chảy cuốn đi ...
                        *
Ơi bao mùa xuân, lần tuổi đi qua
Không tiếc nuối gì, những điều đã chọn
Dù thưa vắng dần, những chiều đưa đón
Ngõ hẹp lối mòn, chìm khuất mờ xa
                        *
Sợi nắng cuối ngày, lấp lóa vờn xoay
Có một ngày xưa, reo vang vọng mãi
Chấp hết tháng năm, trĩu đời bươn trải
Ngồi trong chiều nồng dịu nỗi nguôi ngoai ...
                                          X/2016
                                          L.T.H.

DÙ SAO TA CŨNG CÁM ƠN EM

Cùng dưới nắng mặt trời, nhưng ánh sáng mỗi nơi, mỗi khác
Chỉ trong màn đêm, mọi thứ mới như nhau
Em cắc cớ lấy màu đen tô lên bảng đen bỏng rát
Giũ sạch tình anh tướp mướp cũ nhàu
*
Trong thinh không, dường như chấp chứa lời dối trá
Con mắt, công cụ nhìn, lơ đễnh bóng tà huy
Ánh nắng cuối ngày, lướt qua bao người quen, kẻ lạ
Chấp chóa dòng trôi, chất chứa ngậm ngùi
*
Thao thức cuốn quẩn quanh, đêm mộng mị
Giấc mơ hoa, đắm đuối tiếng thở dài
Tiếng hát đong đưa, lời ca cũ kỹ
Khóc chuyện tình buồn, chìm đắm một mai ...
*
Chuyện cũ rích, sao cứ thương vay khóc mướn
Không lẽ thất tình bây giờ, nó ghê gớm hơn cả ngày xưa
Lan man trôi đi bao điều hoang tưởng
Quạnh quẽ chân cầu, đâu tiếng đò đưa
*
Cây cầu mới xây trên dòng sông muôn năm cũ
Con nước ròng, xuôi cạn kiệt về đâu?
Con thuyền xưa, cánh buồm trắng phất phơ bùa chú
Ngọn đèn đường bừng sáng tỏa xa, sao không sáng được dưới chân cầu
*
Chuyện đời đã biết, hiểu hay không cũng mặc nhiên thừa nhận
Bởi giải tỏa chuyện này, sẽ vướng víu đến chuyện kia
Thôi dĩ vãng, quăng một quãng đời lận đận
Gian khó qua rồi, cám ơn mình ta đã sẻ chia ...
                                               L.T.H.

SAU MƯA NGỒI NHẬU MỘT MÌNH

Trống huơ, quán vắng, rượu suông
Một mình ngồi cũng không buồn, không vui
Dấu xa, buông thả ngậm ngùi
Chợt nghe tiếng đất thở mùi quê hương

          Lê Thanh Hùng

    Bắc Bình, Bình Thuận
READ MORE - MÙA XUÂN NÀO ĐÃ ĐI QUA / DÙ SAO TA CŨNG CÁM ƠN EM / SAU MƯA NGỒI NHẬU MỘT MÌNH - Chùm thơ Lê Thanh Hùng