Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Friday, December 19, 2008

THÁI ĐÀO - MIỀN RỪNG NẮNG GIÓ

Miền Rừng Nắng Gió

Truyện ngắn của Thái Đào



Khoảng sau khu chợ là cái ao chuôm, vượt khỏi cái ao theo con đường mòn đi về phía mặt trời lặn là cổng. Ngôi mộ cô ấy nằm bên trái cổng chừng vài mét. Tôi nhớ rõ là như vậy.

... Anh bây giờ khó tìm được mộ cô ta, vì người ta xây dựng bề bộn quá. Không hiểu cô ta còn được yên nghỉ ở đó hay không. Nói phải tội! Không chừng người ta bốc dỡ mang lên đồi rồi. Hay tồi tệ hơn, người ta xây nhà đè lên ngôi mộ.

Người đàn bà nói thế và rót nước mời Thao. Thao, tóc đã hoa râm, áo bạc thếch mầu, có đôi mắt buồn bã:

- Tôi đi làm ăn xa quá. Có tội với cô ta. Đã để cô ta ở tại đây một mình, không ai hương khói.

Thao nói thế và cúi mặt xuống. Người đàn bà ái ngại mở bao thuốc lá ngoại mời khách.

- Hút thuốc đi anh. Có lẽ anh phải ở lại nhiều ngày để tìm kiếm. Tôi thấy việc tìm kiếm không phải dễ. Nhưng anh đừng buồn. Vong hồn cô ấy sẽ phù hộ và anh sẽ tìm kiếm được.

Thao gật đầu và dõi mắt nhìn ra con đường...


Con đường hun hút bụi mù chạy thẳng qua triền dốc, vắt mình lên lưng đèo và đổ xuôi về bên kia dãy núi rừng phía tây. Đó là con đường xuyên qua biên giới. Nó vượt cửa khẩu mạn phía Tây, đổ xuống thung lũng mạn phía đông. Thị trấn, làng bản và khu thị tứ miền rừng xây dựng ven hai bên con đường làm nên một phố núi với nhiều hàng hóa ngoại nhập. Cơ man là hàng hóa được bày bán ở khu phố chợ. Xe Dream, quạt máy, nồi điện. Bia ngoại. Thuốc lá ngoạị Quần Jean, áo thun. Tất cả chừng như phá vỡ miền biên cương, nối cầu tri âm hữu hảo, nối bờ cõi này với bờ cõi kia bằng con đường buôn bán. Cả một miền rừng ngày nào bây giờ nhập nhằng, xao động, nhốn nháo trong cảnh mua - bán và bán - mua, hợp - pháp và bất - hợp - pháp.


Thao ngồi yên, anh cảm nhận sự đổi thay bằng một sự trống rỗng của tâm hồn. Phố núi bây giờ nhà cửa xây dựng đồ sộ, tiện nghi đời sống đầy những hàng hóa cao cấp, hiện đại. Điều anh ngỡ ngàng, nhói nhói là các mốt văn minh đều có mặt ở đây. Quán bia ôm đã vào tới các làng bãi. Nhà hàng Hương Rừng đủ các em tươi mát. Dịch vụ Karaoke ôm không thiếu. Các em xinh đẹp, điệu đàng từ mọi miền đất nước cũng nhanh chân chiếu cố tới mảnh đất này... Điếu thuốc trên tay Thao cháy tàn lúc nào không biết...


Chiều xuống vội.

Mặt trời lặn sau lưng đèo, con đường chìm khuất theo khoảng khắc lụi tàn của ánh nắng.

Thao vẫn ngồi im. Người đàn bà giọng ái ngại:

- Rất nhiều năm như thế mà anh vẫn còn khó khăn à...

ý nghĩ của chị là Thao vẫn còn nghèo khổ, vẫn còn chật vật với cái ăn, cái mang, cái tiêu dùng trong sự sống. Thao gật đầu, cười buồn. Mái tóc anh đã hoa râm. Nếp nhăn trên trán đã in hằn và đôi mắt đã bạc thếch mầu thời gian. Thao buông thõng đôi tay, đôi gò vai nhô lên dáng gầy gộc, héo tàn. Một đời người gần như đã mãn. Giọt nước mắt trên má anh lăn xuống. Mộ phần người xưa đã mịt mù, mất dấu.

Người đàn bà buông tiếng thở dài...


Cùng với những chủ hàng đầy mình thế lực, Thái đen là đại ca vùng phố núi. Mạn rừng chạy dài trong bán kính mấy chục cây số gồm các sắc dân: người Lào, người Kinh, người Bru, Vân Kiều, Tà Ôi. Quần cư, hội tụ trong một khoảng không gian rộng lớn, có thêm nghề buôn bán, gùi hàng, thồ hàng lậu qua về biên giới - Thái đen có dưới trướng cả mấy chục đệ tử và dân cửu vạn làm thuê. Tất cả bọn thanh niên thất tán, không đồng xu dính túi, mò đến đây kiếm ăn, Thái đen sẵn sàng thu nạp. Bên kia sông, phân ranh hai nước Việt - Lào, đồng vốn của Thái đen trải đầy cho các chủ hàng đồng sự. Dưới mạn xuôi, vốn hắn cũng phủ đủ cho các trạm trung chuyển và tiêu thú. Hàng đối lưu hai chiều, qua và về biên giới, hàng hợp pháp và bất hợp pháp, một tay hắn điều hành và chỉ đạo. Trợ lý hắn là bà vợ xinh đẹp nhưng đẫy đà, to béo. Thị sung mãn sức lực, mắt long lanh sáng quắc vì tiền (cặp vợ chồng này, bổ sung cho nhau, ngón nghề nào cũng thạo. Bạo lực và mua chuộc... Đó là chiến lược làm ăn trường kỳ của họ.


Thái đen vừa là hùm vừa là cáo của cửa khẩu miệt rừng. Bàn tay hắn nắm lại là nắm thép, sẽ đập vỡ tung những chướng ngại sắt đá. Đôi môi hắn nở nụ cười, là tình cảm thấm sâu vào phe đối tác, sẽ trơn tru, trót lọt cho những đường đi lối về.


Con cáo già khi đã tu luyện thành tinh, thì nó đã biết biến hóa đủ trò, ma thuật đủ ngón.


Trong thế giới làm ăn vùng cửa khẩu, nghe danh Thái đen người ta phải cúi đầu bái phục.


Thế nhưng, đã mấy hôm rồi, lòng hắn bực bội. Hắn bị ám ảnh bởi cái gã đàn ông phát vãng ở đâu dẫn xác đến vùng này. Thằng cha không thuộc ngành buôn bán, chẳng phải gùi hàng thuê. Hắn như bóng ma, thầm lặng lẩn quất quanh ngôi nhà của Thái đen. Hắn là "cớm" trá hình theo dõi chuyện làm ăn của Thái đen chăng? Hay là một tay đâm thuê chém mướn được một đại ca nào đó phái tới để thanh toán Thái đen...


Thái đen vò đầu, bứt tai... Hắn đã cho đàn em bám riết cái gai đó. Bọn đàn em... chỉ là đồ vai u, thịt bắp, dốt nát vô hạn. Chúng muốn dần thằng cha một trận...


Nhưng, Thái đen không chịu vậy. Hắn có kế sách hành sự riêng. Lòng hắn căm lắm. Chơi đòn sát thủ hắn là chuyên gia hạng nhất. Nhưng chưa vội. Không thể động tí xích mích, hằn thù là xơi tái lẫn nhau. Phải sáng danh sự lẽ. Đánh cho kẻ thù kệch tới già để biết Thái đen là tay anh chị khó chơi... Niềm quang vinh của nắm đấm đã đưa Thái đen lên chót vót đỉnh cao của ngành đại ca vùng cửa khẩu. Hắn đã từng là võ sĩ, một thời nổi tiếng hạ nốc ao đối phương. Sức mạnh võ lực giúp hắn tạo dựng cơ đồ, làm nên sự nghiệp. Thái đen công kênh thằng con trai yêu quý của hắn lên vai. Cậu quý tử mười tuổi, nghịch như quỷ, cười khanh khách trên vai bố, đưa tay chỉ lên đồi cho bố thấy gã đàn ông xa lạ còn thẫn thờ nhìn trời, nhìn đất...

Trong ký ức không bao giờ quên của Thao là sau cái ao chuôm, có con đường chạy thẳng về phía mặt trời lặn. Qua cái gò cao, nhìn qua bên kia thung lũng mịt mù sương khói là cái cổng. Đúng như người đàn bà đã nói - Ngôi mộ cô ta đặt nằm cạnh đó. Nhưng trời đất đã đổi dời, một miền rừng hoang vu đã thay đổi tất cả. Ngôi mộ đã mất dấu. Ngôi nhà hai tầng đồ sộ đứng ngay vị trí ngôi mộ xưa kia. Dọc theo con đường mòn dẫn vào núi ngày xưa, giờ trải nhựa và mở rộng là phố núi sầm uất. Cư dân miền xuôi lên lập nghiệp. Thị trấn cửa khẩu mở toang ra. Chào mời.


Thao đã lạc lối. Anh vật vờ như kẻ mộng du...


Thao không còn thiết gì đến ăn uống, nghỉ ngơi. Tiếp những ngày dài ròng rã. Thao vất vưởng trên những ngọn đồi, băng xuống những khe suối, vào sâu các làng bản. Thao tìm kiếm lại dấu tích của đời mình...

Hơn hai mươi năm trước, Thao còn là một chàng trai trẻ, vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh, người còn mang thương tích, hồn trống không đơn độc. Sau những cuộc săn đuổi của đạn bom và cái chết, sự sống căng ra, vật vã với mưa rừng, thú dữ, cái đói và sốt rét rừng... Người trai trẻ trở về, tìm chút bằng an trên nụ cười của đồng bào làng bản. Phút hạnh phúc bất ngờ bên những con người hồn hậu, tươi tắn lên cõi hồn khắc khoải của anh. Làng bản vui mừng chào đón anh. Những củ sắn nướng, những con cá bắt được ở dưới bờ khe, những tảng thịt săn trên miệt rừng hun hút. Ôi tình cảm biết là bao... Năm đó Thao ở lại đây. Chàng tiếp tục trận chiến mới. Trận chiến xóa mù vùng cao.

Hơn hai mươi năm trôi qua trong ký ức của Thao. Thuở đó anh và chị đã gặp nhau ở đâỵ ở chính cái vùng đất cửa khẩu biên giớị Tiếng súng lúc này vẫn chưa im hẳn. Biên giới phía Bắc còn rực lửa. Mặt trận biên giới phía Nam còn kêu gọi xương máu. Tháng ngày đó có nhiều bất trắc và gian nan. Nhưng sao những con người nơi đây hồn nhiên quá đỗi. Họ hồn nhiên với cả nghèo nàn và đói cực. Họ đùm bọc nhau dưới mái nhà chung của những con người sống sót sau một cuộc chiến tranh.

Thao nằm dài ra trên mặt đất, ngửng mặt nhìn trời. Nhìn những tảng mây trắng từ quá khứ xa xôi, lãng đãng trôi về. Trời trong và xanh quá. Người con gái ngày xưa có mái tóc dài theo mây bồng bềnh trôi về. Em cũng từ cuộc chiến tranh trở về... Không cần kêu gọi, nhưng em tình nguyện đến đây, cũng với nghĩa vụ chống mù vùng cao.

Thao khóc. Nước mắt anh chảy tràn vào lòng đất. Thao khóc đến rã rời thân xác. Và cứ như thế, anh nằm ngửa, giang rộng hai tay nhìn trời.

Ở bên trái cổng là ngôi mộ... Nhưng ngôi mộ đâu rồi! Tòa nhà hai tầng khang trang đồ sộ đã choán mất phần mộ của em. Người đàn ông đập mạnh hai bàn tay xuống đất, anh cào cấu đất đai, như bắt đền người mẹ đất đã quên đi xương máu, hài cốt của những đứa con mình. Bà mẹ đất đã thiên thu im lặng. Bà mẹ đất đã để mặc gió trời gào hú và con người mặc sức quần thảo với nhau để tranh giành cái gọi là sự sống sinh tồn.

Ngày hôm qua, Thao đã tìm vào ngôi nhà hai tầng đồ sộ đó. Chủ nhân của nó đã tiếp anh với một lũ tôi tớ dữ dằn vây quanh.

- Thưa ông, chính miếng đất này ngày xưa tôi đã chôn cất vợ tôi. Tôi vì làm ăn phương xa nên lâu rồi không hương khói được. Nay trở về thì không biết mộ phần của vợ ở đâu. Xin ông chỉ cho... ông đã cất dời đi đâu, hay vẫn còn nằm lại trong khuôn viên này.

Gã chủ nhà tái mặt. Vợ hắn cũng bất ngờ đến run bắn người lên. Những giây phút thật nặng nề trôi qua thật lâu. Gã đàn ông chủ nhà khoát tay, gằn giọng:

- Không có mồ mả gì hết. Nói thế là hồ đồ. Tôi xây dựng một cơ ngơi thế này phải điều nghiên, khảo cứu chứ! Dám làm chồng lên mồ mả người ta mà ăn ở được à! Ông quên cái tư tưởng ấy đi và cút xéo ngay. Đừng đến đây kiếm cớ gây sự. Tôi cảnh cáo ông. Ông có ý đồ gì thì chớ trách tôi. Thái đen này không phải hạng dễ chơi.

- Nhưng thưa ông, chính tay tôi đã chôn cất vợ tôi dưới đất nàỵ

- Cút xéo ngay... Còn nói năng bậy bạ nữa là ông hết đường về.

Và cái lũ tôi tớ dữ dằn vây quanh cũng nhao lên, hùa theo chủ:

- Xéo đi cha ơi! Con ớn cái ngu dại của cha quá.

- Thôi mời bố ra cho - bố chọc giận lũ chúng con, thì lũ chúng con không nể tuổi bố đã lớn đâu.

Thao đã không tranh cãi nổi với lũ người mồm mép nhặng xị đó, anh lại thất thểu lên đồi. Thôi thì, không định vị được phần mộ của cô ấy ở đâu. Thao lấy cả miền rừng này, cả vạt đồi này làm nơi hương khói cho cô ta. Coi như, tất cả đất đai này là mộ phần của cô, xương thịt của cô đã ký gửi vào trong đó...

Và đời này, kiếp này còn sống được ngày nào Thao phải ở lại hương khói cho cô. Anh đã bỏ đi dài ngày rồi. Bây giờ anh không được quyền đi nữa. Anh tìm về đây như tìm về một nơi an nghỉ cuối đời, vĩnh hằng bên cô ấy... Cô ấy chết đi tuổi đời còn trẻ lắm, chỉ vì một cơn sốt rét rừng ác tính, không cấp cứu được kịp thời... Thao khóc như ngày xưa anh đã khóc bên xác cô ta.


Trận mai phục để tiêu diệt Thao xảy ra trong khe núi. Đó là điều Thao không thể ngờ được.

... Lần theo dấu tích những con đường Thao hay lang thang, bọn côn đồ đã chọn đúng nơi vắng vẻ nhất. Chúng ra tay tàn bạo với gậy gộc và nắm đấm. Thao rũ người xuống, vừa chống đỡ vừa tìm đường thoát thân. Bọn chúng đông lắm, có cả chục thằng to cao, bự chắc đánh đấm một gã đàn ông ốm gầy. Điều chúng bất ngờ là gã đàn ông yếu gầy đó cũng có trình độ đấm đá bậc thầy. Có thế, gã mới một mình cầm cự được với cả chục thằng, bảo vệ được tấm thân khỏi sứt mẻ và chạy thoát một cách an toàn.

Bọn côn đồ cụt hứng, nhưng chúng cũng hả hê về báo lại cho chủ kết quả cuộc đánh người bất hảo đó.

Trong cái giang sơn miền rừng này, chuyện đánh nhau là cơm bữa. Tý so kè, kèn cựa, xích mích là nắm đấm tống vàọ Nắm đấm tống vào càng mãnh liệt sự tồn tại càng oai phong.

Thái đen là đại ca của ngành làm ăn có bạo lực. Hắn đã mất mấy phút trầm tư để nghĩ về kết quả trận hành hung do hắn chủ trương. Bà vợ xinh đẹp của hắn đã khích bác chồng. Thị chế vào:

- Đồ con rùa rút cổ. Một thằng giẻ rách đến gây sự tận nhà mà để yên được à...

Thế là máu vũ phu, bạo lực nổi dậy. Tẩn cho hắn một trận nên thân đi. Chủ khiến, tớ lập tức thi hành. Nhưng tẩn rồi, nện rồị.. vô hiệụ Thằng cha ấy vẫn còn. Hắn vẫn còn hương khói trên đồi cao, bên khe suối, trong nghĩa trang. Thằng quái này hết muốn an cư với người sống, hắn bạn bè với người chết thôi! Thái đen cười sằng sặc. Thằng quý tử của hắn cũng cười sằng sặc như bố. Con vợ hắn nguýt chồng, giọng dằn dỗi:

- Phải tìm cách tống khứ hắn đi. Hắn ở lại dài ngày, đồn bậy... ăn yên, ở yên được à...

Thái đen nín cười lập tức. Phải đích thân hắn ra tay thôị Lũ vai u, thịt bắp này du côn có thừa nhưng u mê lắm, đần độn lắm. Chuyện nhỏ mà vẫn không làm xong.

Sáng nay, Thái đen đã gặp Thao trên con đường vào chợ:

- Mày khá lắm. Phải đích thân tao diệt mày thôi.

Mắt Thái đen quắc lên. Tay nó siết lại. Các cơ bắp cuồn cuộn nổi lên. Thao buồn bã lắc đầu:

- Tôi xin anh. Tôi về đây để tìm mộ vợ tôi. Tôi không về đây để đánh nhau. Các anh tha cho tôi.

- Tha cho mày được à. Mày hạ nhục tao đến thế mà tha được à!

Cái giọng ngang ngược của kẻ côn đồ chỉ có phường du côn mới nghe được. Ai hạ nhục ai? Bởi phố núi phát triển, tấc đất cũng là tấc vàng; đè lên mồ mả người ta mà xây dựng nhà cửa, vô luân đến cạn đáy tình người. Trái tim không một chút áy náy; còn hành hung đánh đập như loài thú dữ.

- Anh không phải là con người...

Thao chưa kịp nói hết, một cú đánh như trời giáng bủa xuống, thêm cú đá xốc ngược lên.

Nhưng! Thái đen... bỗng sừng sờ. Gã đàn ông ốm yếu đó hất nhẹ một cái, hóa giải hết và ông ta nhẹ nhàng lẩn mình vào chợ.

Tên đệ nhất võ sĩ ngành đâm chém phát hiện ra trước mặt hắn là một ông thầy. Một ông thầy võ cao thâm và đắc đạo.

"Đích thị ông ta là một thầy võ cao thâm và đắc đạo".

Điều phát hiện của tay đệ nhất võ sĩ ngành đâm chém là đúng sự thực...

... Bởi từ khi người vợ mất, Thao ngã bệnh, đau ốm triền miên. Người ta thương anh, cho anh chuyển công tác về miền xuôi. Nhưng Thao đã chán cảnh giả dối, kèn cựa lẫn nhau, ganh tị đâm soi nhau. Thao rũ bỏ hết để lang thang, nay đây mai đó... Núi rừng, đồng nội, các buôn sóc người Chăm, làng bản các dân tộc vùng Tây Nguyên, Thao đều đến hết. Khi anh học đánh cồng, đánh chiêng, nhảy múa. Khi anh theo các tộc người miền núi đi kiếm lá thuốc rừng chữa bệnh. Khi anh học võ với những người già vùng đất Tây Sơn. Khi anh say vùi bên ché rượu cần ở rẻo núi vùng cao...

Anh học đánh cồng, anh học thuốc, học võ cũng không biết để làm gì. Chúng như những thứ nghệ thuật làm ăn say mê để quên cơn đau và nỗi buồn. Điều Thao luôn luôn phải nhớ là nhân nghĩa con người, là con người phải biết có nhau... Bao năm rồi anh mang hình bóng cô ấy trong tim để đi trong trời cao, đất dày, sông sâu, núi rộng...

Sáng nay cả thị trấn chiêm ngưỡng một hành vi bất hủ của Thao. Thằng con trai độc nhất của Thái đen mải ham chơi đùa rớt xuống giếng. Giếng miền cao sâu lắm. Một bầy lũ tôi tớ, đầy mình võ nghệ, cơ bắp cuồn cuộn, nháo nhác chạy quanh. Chúng có những trái tim bị loài chó xơi tái, thạo việc đánh người, chưa biết việc xả thân cứu người. Chúng gọi nhau ơi ới, nhốn nháo...

Thái đen... đại ca đến thế, hung tợn đến thế, cũng chỉ biết quát tháo và khóc lóc...

Đứa con của hắn đang nằm dưới giếng sâu - Đứa con độc nhất, nối dõi tông đường... Thái đen yêu thương gìn giữ thằng bé lắm. Đó là hạt ngọc quý nhất đời hắn, mai này sẽ thừa kế gia sản tỷ phú của hắn; sẽ hương khói phụng thờ dòng tộc nhà hắn. Ông cố, ông sơ... phải phù hộ độ trì cho thằng bé.

Thế mà bây giờ thằng bé nằm dưới giếng sâu, chưa biết sống chết thế nào. Vợ hắn gào to, thét khàn cả giọng:

- Ai cứu con tôi!

Không ai dám xuống hết. Chưa kịp tìm ra biện pháp gì hết. Trong cái khoảng khắc căng thẳng đó, cái thằng người không muốn an cư với người sống, bạn bè với người chết như chồng thị đã rủa xuất hiện. Ông bình thản cởi áo và quần, quấn qua cổ mình, rồi leo xuống giếng...

Năm phút. Mười phút im lặng trôi qua... Thao đã dùng chính quần áo của mình, cột thằng bé trên lưng và dùng tay dùng chân bấu vào thành giếng, đạp vào thành giếng... mà lên.

Cả một rừng người vỗ tay hoan hô náo động cả thị trấn.

Thao lặng lẽ đặt thằng bé nằm xuống... làm hô hấp và xoa bóp cho nó. Thằng bé mở mắt, ngỡ ngàng nhìn người cứu nó.

Thái đen qua cơn xúc động đã thành kính đứng trước mặt Thao:

- Tôi có tội với ông. Ông là người vô cùng nhân đức.

Không để Thái đen nói hết lời, Thao xòe hai bàn tay ra:

- Anh nhìn đây. Hai bàn tay tôi đã rớm máu. Nhưng nó chỉ dùng cứu người. Tuyệt đối không đánh người.

Đó là giây phút giác ngộ của Thái đen...

Niềm kiêu hãnh của cướp giật, bỗng chốc tan tành.

Thái đen từ từ quỳ xuống. Hắn lạy sống Thao mấy lạy. Cái chân lý hắn phát hiện được, được nói ra chỉ vỏn vẹn mấy lời. Bàn tay nên dùng để cứu người. Phút chốc trong đầu Thái đen đã hình thành một quyết định. Sẽ lật sập ngôi nhà, đào bới tận cùng mỗi tấc đất... để tìm kiếm hài cốt của cô ấy.

Thành cổ Quảng Trị, mùa hè 1999


(Báo Văn nghệ)


THƠ THÁI ĐÀO


TRĂNG ĐÃ ĐỘ RẰM


Không phải tình cờ gió theo mây

Tri ân em mở rộng lòng này

Cho hoa vô hướng thơm ngàn núi

Cho biển trùng dương dội sóng gào.

Không phải tình cờ hạc bay xa

Bỏ đình trơ vắng cảnh chiều tà

Ngàn năm bỡi lụy cơn dấu ái

Gió cuốn về trời em xót xa.

Mưa vẫn màu mưa ngàn năm cũ

Mà nghe thân lạnh buốt đường về

Chân vênh bờ cõi mùa trăng động

Lá lót em nằm tự cỗ xưa…

Ta tạ ơn nhau đến vạn lần

Vạn lần môi tím với cơn đau

Không phải tình cờ mà em tới

Em tới bởi trăng đã độ rằm.


CHỢ VÃN CHIỀU TÀN


Bên kia có dòng sông thức suốt

ta bạc đầu ngồi đợi ánh trăng

em son phấn đi về phố chợ

bao năm rồi vàng đá nát tim.

Bao năm rồi câu thơ phiền muộn

lưng chừng đời

em bỏ tôi đi

mưa hạnh phúc

đôi tay núng nính

lưng chừng đời một trái tim khô.

Mù con mắt

phương nào để nhớ

áo phong sương phô với ngày dài

phô suốt kiếp bờ hoang ảo mộng

em ơi em…tình đã trần ai!

Bên kia có dòng sông thức suốt

tháng năm rồi cuộn những cơn đau

tháng năm rồi …

chợ chiều vãn khách

vãn câu hò

vãn chuyến sang sông

vãn cuộc tình lao đao – lận đận

em qua sông

không có ngày về.

Em qua sông

đời tôi đã bạc

cuộc bán buôn đến độ cao trào

tôi chỉ có tim khô nguội lửa

bán cho ai…

chợ vãn

chiều tàn

THÁI ĐÀO




ĐỌC THÊM

Mặt đất này rớt lại mấy mùa trăng, thơ

Bài ca lau trắng, thơ

Tiếng an dân, truyện ngắn
Loài hoa trắng, truyện ngắn
READ MORE - THÁI ĐÀO - MIỀN RỪNG NẮNG GIÓ

Sunday, December 14, 2008

LÊ ĐỨC DỤC


Bến Quê. Ảnh Lê Đức Dục


Tình đầu



Hình như nắng đã
Rụng vàng bến quê
Hình như gió đã
Thổi qua ước thề
Và con đường cũ
Xa rồi tiếng chân
Con ve mùa cũ
Thôi làm thi nhân
Ngồi hong tình nhớ
Bên chiều tháng năm
Nghe người một thuở
Xế vai tình rằm
Trời xanh nẻo nhớ
Mây bay về đâu
Hình như em đã
Quên anh - tình đầu.


ĐỌC THÊM
Sự tưởng niệm lặng lẽ, voque.org
Hơi thở suối nguồn

Nhớ quê,thơ

Mùa hạ về..., thơ
Đông Hà-Thành phố ngả ba đường
READ MORE - LÊ ĐỨC DỤC

Saturday, December 13, 2008

VÕ XUÂN HUY


































VÕ XUÂN HUY
GỒNG GÁNH CÙNG SƠN MÀI

Lý Hạnh

Sinh ra và lớn lên ở xã Vĩnh Thuỵ, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, Huy là nông dân "rặt". Không chối bỏ chính mình, Huy thừa nhận, hôm nay, anh vẫn là người nông dân đang "cày" trên mảnh đất hội hoạ…

Quen Huy đã lâu nhưng tôi ít có dịp nói chuyện với anh. Thi thoảng gặp anh ở những cuộc triển lãm tranh. Những câu chuyện về hội họa bắt đầu từ đó để rồi trở thành những đoạn đứt quãng… Huy trầm lặng và ít nói, thế mà, một lúc vu vơ nào đó anh lại buông những câu triết lý khá chua chát. Dần dần tôi nghiệm ra, trong sâu thẳm tâm hồn Huy luôn ngập tràn cô đơn, một nỗi niềm không dễ gì chia sẻ được. Ai đã từng gắn bó với Huy mới biết, hành trình đi qua tuổi thơ của anh không chỉ là một cuộc rong ruỗi đầy nụ cười mà còn có cả mồ hôi và nước mắt. Nói về một miền quê nghèo, người ta dễ liên tưởng tới hương lúa ngọt ngào, tới những ước mơ trong trẻo dưới bầu trời xanh và bóng tre làng. Quê của Huy lại khác: nắng gắt, gió Lào, cát trắng và những cánh đồng ngào ngạt vết đạn bom. Vừa mở mắt chào đời, Huy đã chạm ngay ánh mắt lo toan của bố, đôi bàn tay ram ráp nhọc nhằn của mẹ và cả miền quê nghèo oằn mình trước bom đạn chiến tranh. Những ám ảnh đầy khắc nghiệt ấy tự nhiên bước vào tiềm thức của Huy rồi ăn sâu, bám rễ lúc nào chẳng hay, để sau này dẫu anh đi đâu, về đâu, nó vẫn lặng lẽ nhức nhối như một vết thương không bao giờ lành lặn. Tưởng rằng, những đam mê nơi phố thị bon chen ngột ngạt vật chất và hơi người sẽ làm Huy tan loãng giữa mênh mang ký ức và hiện thực nhưng cứ "đọc" tranh Huy sẽ biết. Sau những nét cọ tung tẩy kia là những con chữ rất vững vàng, những con chữ như đôi mắt nhìn rất thẳng, rất sâu vào ngày hôm qua rực lửa, vào bầu trời tuổi thơ cứ trôi bồng bềnh trong mộng tưởng hằng đêm. Một đôi mắt trầm ngâm, suy tưởng mà trong trẻo như thể ngọn lửa tình yêu chưa bao giờ tắt giữa những cuộc đổi chác của đồng tiền, mồ hôi, địa vị và bùa mê phố xá. Thế mới biết, vì sao chưa đầy 40 tuổi, Huy đã là người mang gương mặt trầm tĩnh đến lạ lùng. Trên gương mặt ấy, có thể nhìn thấy sự vững chải đến chông chênh và sự im lặng đến buốt nhói. Sự tư lự giữa 2 trạng thái đã làm tranh Huy có những đối lập bất ngờ và cũng đầy suy tư, trăn trở. Nếu như với Mây và cỏ, Vũ điệu của cát, Chăn trâu, Đất và làng… Huy nắm tay người xem bước vào một miền quê trong vắt với bầu trời xanh màu mơ ước, cánh đồng cỏ ngọt ngào và những giấc mơ phiêu diêu cổ tích thì với Vỹ tuyến xanh, Đêm loạn… anh trở về với quá khứ mất mát và thương đau trên "chuyến xe" sắc màu. Một cuộc viễn du không còn sự hiện diện của ánh mắt trẻ thơ ngơ ngác và nụ cười tinh khôi như ánh nắng ban mai mà oà vỡ thảng thốt. Những mảng màu sắc đậm, tối, u uẩn cứ chạy lướt qua, không thể nắm bắt nhưng lại cứa vào tâm hồn như những vết xước bỏng rát. Xem tranh anh, bất chợt, lại níu bóng quay về với những câu thơ đầy ma mị:
Thiếu nữ chợ làng bán váy áo sồng nâu
Mua nỗi buồn thập thành phố thị
Sinh ra từ những tiếng thì thầm vào những đêm mất ngủ
Những đường cọ biến hình trong giấc mơ
(Những sắc màu - Lê Thị Mý Ý viết tặng Võ Xuân Huy)
Tôi vốn "dị ứng" với thuật ngữ đương đại. Có lẽ là hơi cực đoan nhưng tôi thích cái chất bác học sang trọng mà trầm ngâm dung dị của những tác phẩm nghệ thuật cổ điển hơn là cái phá cách ngông nghênh của các nghệ sĩ đương đại. Thế mà tôi lại thích nét đương đại trong tranh Huy. Có lẽ bởi Huy không khẳng định chính mình bằng những chiêu "quái" để thoát khỏi "khuôn vàng thước ngọc" mà những nghệ sĩ đi trước đã ngấm ngầm hình thành một qui ước riêng. Huy cũng không biến những tác phẩm nghệ thuật của mình thành nơi xả stress một cách cuồng loạn, một hội chứng của đời sống hiện đại. Ẩn ức trong tranh Huy vừa thăm thẳm chiều sâu của thời quá vãng lại vừa mang hơi thở hiện đại. Chất hiện đại toát ra từ màu sắc, đường nét, bố cục và cả cách thể hiện. Anh là người biết kế thừa cái cốt lõi tinh tuý của hội họa truyền thống lại vừa biết chuyển tải chúng bằng ngôn ngữ nghệ thuật hiện đại. Ngay từ những ngày còn ngồi trên giảng đường đại học, anh đã chọn sơn mài làm hướng đi cho mình. Ngày ấy, Huy yêu sơn mài bằng cảm tính. Nó đẹp lóng lánh, huyền bí và sâu sắc. Không có màu trung tính, nhợt nhạt, màu sắc trong tranh sơn mài mạnh mẽ và dữ dội, đòi hỏi người xem phải cá tính, bộc trực và thiên về chiều sâu hơn là ngắm nhìn bằng đôi mắt thông thường. Lúc vẽ cũng vậy, sơn mài đòi hỏi người nghệ sĩ phải dồn vào đấy cả tâm và sức, không nhởn nhơ chiêm nghiệm, không thư thả suy tư mà để cảm xúc ào ạt tràn ra như thác đổ. Và anh chọn nó như chọn cho mình một nét tính cách, trầm tĩnh mà ồn ào dậy sóng. Sau này, càng vẽ, càng đi sâu tìm hiểu về sơn mài, anh càng khám phá ra chính mình. Tất cả những chọn lựa không chỉ là đam mê ngẫu nhiên và thuần tuý mà chính tình yêu quê hương với nỗi ám ảnh của tuổi ấu thơ đã thôi thúc anh chọn loại hình nghệ thuật này. Không biết từ bao giờ những mái chùa cong vút huyền bí, những đình làng phủ kín rêu phong, những bức phù điêu huyễn hoặc trong ngôi miếu đổ nát đã trở thành ma lực đối với anh. Và anh nghiệm ra, chỉ có loại sơn độc đáo, có một không hai của cây sơn Phú Thọ mới lột tả một cách sâu sắc, tinh tế hồn vía đậm chất Việt này. Ao làng, Giếng làng, Mạch của làng, Cõi thinh không… chính là cõi u linh, mầu nhiệm, đầy bí ẩn mà dẫu đã bao đêm thức trắng Huy vẫn không sao giải mã được. Anh đành gửi tình yêu, những ám ảnh của tuổi ấu thơ, những khoảng không hun hút không chạm tới đáy ấy vào tranh. Dấu ấn Võ Xuân Huy đã tạo nên từ những bức tranh không hình khối rõ ràng, không thoả mãn đôi mắt trần tục mà đòi hỏi chiều sâu tâm linh ấy.
Ở Huế, hiện nay, ngoài vợ chồng hoạ sỹ Trương Bé, Đức Huy và Lương Ánh Tuyết, rất ít người sống chết với sơn mài. Thi thoảng mới có những bức sơn mái "chính hãng", hầu hết là sơn mài đã bị đánh lận con đen bằng sơn công nghiệp. Lý do là giá sơn mài khá đắt và tranh sơn mài khó vẽ, khó bán. Huy chọn cho mình sơn mài, không phải vì muốn chơi trội, càng không phải để làm giàu. Đơn giản, anh yêu loại hình nghệ thuật này như yêu bóng dáng quê hương luôn ẩn hiện trên mỗi bước chân đi, trong đôi mắt đã mờ vì bụi bặm phố xá và trong giấc ngủ đêm đêm. Là giảng viên -Trưởng Bộ môn sơn mài ứng dụng-Trường đại học Nghệ thuật Huế, Huy luôn tâm niệm, mình phải truyền đạt điều gì đó thật mới, thật lạ cho sinh viên của mình. Không thể để thế hệ tiếp theo đi theo lối mòn của thế hệ trước, càng không thể để cho nghệ thuật trở nên bất động, vô cảm. Biết là khó nhưng Huy vẫn ôm ấp, vẫn mày mò cho bằng được. Chẳng phải nguồn gốc của sơn mài vốn chỉ là nghề thủ công mỹ nghệ đó sao. Từ một nghề trở thành một loại hình nghệ thuật không phải là một hành trình đơn giản. Nhưng tất cả cũng bắt nguồn từ bàn tay, khối óc và trái tim con người. Huy không cho rằng mình vĩ đại và làm những điều vĩ đại, đơn giản anh chỉ muốn cống hiến. Và cái mới mà anh có công khai phá ấy là giải phóng cây bút theo lối vẽ sơn dầu và đưa ngôn ngữ của đồ họa, điêu khắc… gồng ghánh cùng sơn mài. Không còn là một mặt phẳng hài hoà, trên tác phẩm của mình anh vận dụng những kỹ thuật khắc, chạm, đắp nổi, cào xước… Ngoài việc đem lại vẻ đẹp độc đáo cho tác phẩm, mỗi vết chạm khắc còn là nơi gửi gắm chiều sâu nội tâm, những trắc ẩn đa đoan của Huy. Nó thể hiện những dự cảm chông chênh về cuộc đời, số phận và sự bất toàn của đời sống đang ngày ngày mở ra trước mắt bao muộn phiền, âu lo.
Tâm huyết với sơn mài, Huy và cậu học trò của anh đã cho ra đời một Galery với cái tên mang màu sắc chủ đạo trong sơn mài: SON. Galery Son ra đời như một phiên bản đầy đủ và có hệ thống về sơn mài trong tâm thức Việt. Giống như bảo tàng lưu giữ thông tin và những hiện vật cổ, Son galery chứa khá nhiều hiện vật, từ nguồn gốc của cây sơn Tam Nông (Phú Thọ), những dụng cụ làm sơn, các loại sơn cánh gián, sơn then… cho đến những quỳ vàng, quỳ bạc, từ các làng nghề thủ công truyền thống ở miền Bắc mà ngày nay số người theo nghề chỉ còn đếm được trên đầu ngón tay. Nó như một địa chỉ neo lại di sản phi vật thể trong tâm trí của chàng hoạ sĩ mê sơn mài Võ Xuân Huy. Đây chính là những bài học thiết thực và sinh động sẽ còn mãi với thời gian rồi đi khắp mọi miền để dấu ấn sơn son thiếp vàng Việt Nam mãi rực rỡ. Và rồi cũng chính vì sơn mài mà anh lại từ bỏ Son gallery để dành tâm huyết cho một cuộc cách tân sơn mài đầy tâm huyết. Huy sẽ có một triển lãm cá nhân tại Studiotho-78 Mã Mây –Hà Nội.
Với những bức tranh sơn mài hình vuông đơn giản, gắn với quan niệm trời tròn đất vuông của cha ông ngày trước, Huy đã Khẳng định tên tuổi của mình bằng hàng loạt cuộc triển lãm cá nhân trong và ngoài nước. Thế nhưng, khi lui về với thế giới riêng của mình trong một góc khuất nhỏ tại số 44 đường Trần Quang Khải, anh lại lặng lẽ với công việc của một người "thợ mỹ nghệ". Với Huy, vẽ là cuộc chiến chóng lại sự phi lý- sự tầm thường. Vẽ là mơ mang bờ cỏi của tâm hồn. Cần mẫn như con ong xây tổ, bằng sơn mài, Huy đang xây cho mình một thế giới tâm linh chứa đựng cả niềm hy vọng và nỗi cô đơn; cả những ám ảnh đầy ma mị của tuổi ấu thơ lẫn cái bất an rực rỡ của ngày mai đang ùa đến. Huy ẩn hiện trong thế giới sắc màu trừu tượng như ẩn hiện trong những câu thơ mà Hoa Ngõ Hạnh dành tặng riêng anh:
Những sắc màu hát về tình yêu
về niềm tin…
Và dự báo hiểm hoạ loài quỷ dữ
Tiền bạc ư?
Không phải hạnh phúc
Tôi rất nghèo
Thế giới chẳng giàu đâu!

CỬA VIỆT- XUÂN MẬU TÝ-2008


MỜI ĐỌCBấm vào đây:TRANG WEB CỦA VÕ XUÂN HUY

Triển lảm tranh của Võ Xuân Huy,tin ảnh của Võ Văn Luyến
READ MORE - VÕ XUÂN HUY

Monday, December 8, 2008

LÊ DIỄN







THƠ LÊ DIỄN


Loay hoay đời




Loay hoay đã hết một ngày

Đã qua một tháng đã đầy một năm

Loay hoay trần thế mù tăm

Tìm tĩnh lặng giữa thinh không bụi đời

Loay hoay nói nói cười cười

Dấu trên môi, một phận người lênh đênh

Loay hoay rồi lại loanh quanh

Mới thoáng chốc mà tóc xanh úa rồi

Loay hoay đẫ hết một đời

Ta về cố quận hát lời chiêm bao.



Tình buồn


Ta về giữa đêm khuya

Băng qua con đường cũ

Ngỡ em chờ đâu đó

Hoá ra là cơn mưa



Ngày xưa em yêu ta

Tình yêu rất hoang sơ

Tình yêu đến tình cờ

Tình yêu thật vô tội



Ngày nay ta yêu nhau

Tình yêu đau và đuối

Vừa yêu vừa sám hối

Vì ta và cả em

Đánh mất tính dại khờ.



LÊ DIỄN


READ MORE - LÊ DIỄN

Thursday, December 4, 2008

HÀ ĐÌNH NGUYÊN - CON GÁI HUẾ

Kinh thành Huế, 1875


Con Gái Huế

Tác Giả: Hà Đình Nguyên


Ủa, con nhỏ này ở đâu ra vậy cà? Tôi ra Huế cả tuần nay rồi, bạn bè của bé Hà tôi cũng gặp hết mà có bao giờ thấy con nhỏ này đâụ Tôi nép dưới bậu cửa sổ, chăm chú ngắm đối tượng: tóc dài ôm kín khuôn mặt thanh tú, nước da trắng hồng. Áo pull trắng, quần tây đen - ngồi đong đưa trên chiếc xích đu ở thêm căn nhà đối diện. Cô bé ôm trong lòng một chú chó con lông trắng mõm hồng tuyệt đẹp. Con chó cứ dúi mõm liếm lòng bàn tay cô chủ làm cô bé thỉnh thoảng ré lên cười rúc rích vì... nhột. "Đã" thiệt!
Tôi chạy vô khều bé Hà ra:
- Hà nè, con nhỏ nào ngộ ghê vậy hả?
Hà nói:
- Con Thủy hàng xóm của mình đó!
- Sao bữa giờ anh không thấỷ
Hà liếc tôi một cái sắc như dao:
- Anh có ở nhà đâu mà thấỵ Hết tắm biển Thuận An lại đi lăng Khải Định, rồi chơi đồi Thiên An... Chừ thấy người ta rồi đó, muốn chi thì nói đi!
Con nhỏ này thiệt, cứ nói thẳng ruột ngựa làm tôi cũng hơi... ngượng, đành xuôi xị:
- Thì muốn... làm quen chứ còn muốn gì hơn nữạ
Nhỏ Hà dẫu môi "xí" một tiếng:
- Bạn bè em đứa mô anh cũng chê. Uổng công em giới thiệụ Chừ thì anh ráng mà "tự biên, tự diễn" đi nghẹ
Tự ái quá đi chứ, tôi ưỡn ngực:
- Để đó, tao làm "đẹp" cho coị
Nói cứng với Hà thế thôi, chứ tôi nghĩ hết cách vẫn không tìm ra phương pháp "tiếp cận đối tượng". Chẳng lẽ xồng xộc qua nhà "người ta" sống sượng: "Tớ muốn làm quen với đằng ấy" à? Chuyến đi thăm Huế lần này là do ba má tôi thưởng, nhờ đậu vào Đại học trong một đợt thi vừa rồị Tôi "thông minh" như thế, lẽ nào... chịu thuạ Ba ngày trôi qua, tôi vẫn chưa "quen" được với "con nhỏ nhà đối diện". Tôi canh đủ ba ngày, vẫn có đủ ba bữa nhỏ đó ôm con chó trắng ngồi "trêu ngươi" ở chiếc xích đụ Dĩ nhiên, thỉnh thoảng nhỏ vẫn ré lên những tràng cười nghe muốn... lộn gan. Con nhỏ vẫn "vô tư" cười đùa trên sự vừa ngưỡng mộ vừa... nhục nhã của tôị Con trai Sài Gòn mà... "tán" không được con gái Huế!
"Cái khó ló cái khôn". Đột nhiên đầu óc "đậu đại học" của tôi được "phục hồi chức năng". Điều tôi nghĩ đến lúc này không phải là khuôn mặt xinh đẹp của nàng mà là cái chót mũi hồng hồng của... con chó! Chớ sao, nó sẽ là vật "trung gian" lý tưởng giữa tôi và cô bé. Phải "làm quen", dụ khị con chó trước đã mới mong làm thân được với cô chủ của nó.
Cậu mợ giết gà đãi tôị Tôi nói nhỏ với Hà để dành lại ít xương. Hà thắc mắc:
- Làm chi rứả
Tôi suỵt:
- Bí mật.
Nhưng khi Hà thấy tôi ngồi nơi bậu cửa, tay thập thò mấy khúc xương, miệng "mút chuột": "Chúc... chúc... chúc chúc" thì Hà bụm miệng cười:
- Úi chao, anh Điền dụ dỗ "chó vị thành niên"!
Tôi bật cười:
- Con nhỏ này, láo!
Rồi công lao của tôi cũng được đền bù: con chó nhỏ vung vẩy cái đuôi chạy sang. Chiếc lục lạc đeo nơi cổ khua leng keng... Chú chó "xực" mấy khúc xương gà đến là thoải máị Tôi bồng chú tung tăng khắp phòng. Thoáng thấy bóng chủ nhân sang kiếm chó, tôi ôm chú chó chui tọt vào phòng riêng...
- Hà ơi, có con chó của Thủy chạy lạc qua đây không?
- Hình như có đó Thủy nợ. Trong phòng anh Điền đó.
- Anh Điền mô?
- Ông anh họ của Hà ở Sài Gòn mới ra chơị
- À, có phải cái ông hay ngồi sau cửa sổ... nhìn lén người ta không?
- Đúng chóc!
"Quê" dễ sợ, hóa ra mọi hành vi của tôi đã bị đối phương phát giác. Vậy mà "họ" cứ... tỉnh bơ! Con gái Huế đáo để thật!
- Thủy vô bắt chó về đi!
- Không dám mô, dị lắm! Thôi cho Thủy ngồi ở đây nghẹ Nhờ Hà nói với anh Điền giữ chó giùm Thủy, rụng một cọng lông là Thủy bắt đền đó nghẹ
Tôi dại gì làm rụng lông chó, chỉ "nhẹ nhàng"búng vào đôi tai của nó vài chục cái để gọi là "trừng phạt" chủ nó đã dám gán cho tôi cái chức... "giữ chó".
Đến chiều, tôi thả chó ra, sau khi nắn nót viết cho mấy chữ: "Đã săn sóc chó rất tử tế. Thủy trả công cho mình chứ?". Xếp nhỏ mảnh giấy, cột vào chiếc dây da đeo lục lạc nơi cổ chó - tôi phục tôi sát đất: sức mấy mà con chó đủ "trình độ" để méc với chủ nó là tôi đã "săn sóc" bằng cách... búng lỗ tai!
Sau khi con chó mang theo "trình quốc thư" của tôi trở về "cố quốc", tôi nôn nao chờ đợi tín hiệu trả lời của Thủỵ Nhưng mấy ngày liền sau đó chẳng thấy cô bé ra ngồi ở xích đu như mọi khị Cả con chó cũng không thấy tăm dạng. Nàng muốn tránh mặt tôi nên xích chó trong nhà chăng? Buồn quá tôi xách cây đàn ra ngồi nơi bậu cửa, ngó mặt qua nhà đối diện, miệng nghêu ngao bài hát thất tình phổ từ thơ Nguyễn Bính: "Nhà nàng ở cạnh nhà tôi... Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng có con... chó trắng thường sang bên nàỵ Chó ơi, chó hãy vào đây..."
"Linh" thay! Tôi vừa hát đến đó đã nghe tiếng gừ gừ của con chó ngay sát bên chân. Vâng! một con chó trắng... đàng hoàng! Hà gỡ từ cổ chó ra một mảnh giấỵ A ha! Vậy là có "hồi âm" rồị Hà vừa tủm tỉm cười vừa đưa mảnh giấy cho tôi: "Hà ơi, có muốn nghe băng nhạc TIẾNG HÁT ĐÀN BÒ không, Thủy cho mượn". Cha chả, con gái Huế "thâm" thật. Tôi hát đâu đến nỗi nào mà lại bị ví như là... bò rống! Từ "bò rống" tôi lại liên tưởng như mình bị "bò đá". Quá đau!
Tôi đem con chó vào phòng cột xích lạị Đáng lẽ tôi phải "nựng" nó thêm mấy chục cái búng tai, nhưng thôi - bắt nó làm "tù binh" mới là diệu kế. Quả thật, từ lúc "tên giao liên" bị tôi bắt cầm tù thì mọi liên lạc của chủ nó và tôi đều phải qua "trạm trung chuyển" là bé Hà. Hà bảo:
- Thủy biết anh Điền giận nên giữ con chó lạị Hắn muốn qua xin lỗi anh rồi đem con chó về mà... xấu hổ. Thôi, thả chó ra đi anh!
Tôi làm tới:
- Đâu được, nữ chủ phải trực tiếp sang đây lãnh "tù binh" về.
Hà trợn mắt:
- Chi mà dữ rứả Thôi thả ra đị Sáng nào em cũng phải dọn vệ sinh, thúi òm!
- À, cái khoản này thì... chủ nó phải lo chứ!
Tôi buộc lòng thả con chó ra vì tội nghiệp bé Hà (chứ không phải... tội nghiệp chủ nó).
Ác nỗi! Con chó lại quên bẵng đi là tôi đã từng... búng tai nó. Nó tỏ ra quyến luyến tôi một cách rất tình cảm - Phải chi chủ nó cũng được như rứả Hà phải bế nó đi "giải giao". Hà về, tôi hỏi:
- Thủy có nói gì không?
- Có, Thủy nói là anh Điền đô.
Tôi vênh mặt:
- Đô chứ sao không đô màỵ Mười chín tuổi mà cao 1,70 mét nặng 60 kí là lý tưởng à nghen.
Hà cười:
- Không phải, Thủy nói Điền đô là... đồ điên, đó.
Tôi á khẩụ
Đúng là... con gái Huế. Tôi đã thèm. Hết còn rình rập chiêm ngưỡng. Hết còn mơ màng một "thiên tình sử... lâm ly". Dẹp quách! Tiếp tục tham quan các danh lam thắng cảnh còn sướng hơn. Vậy là sáng Nam Giao, chiều Cồn Hến tôi cứ thoải mái "tiêu dao" ở các nơi xa để quên cái nhục gần kề. Chỉ đến lúc có điện của ba má gởi ra bảo về chuẩn bị nhập học tôi mới chịu "dừng bước giang hồ".
Đêm cuối ở nhà cậu mợ. Hà được giao nhiệm vụ nấu một nồi cháo gà. Tôi định xuống bếp phụ nhổ lông gà thì vướng phải "tên tù binh - lông trắng" cứ nhảy chồm chồm trước mặt, sủa ẳng ẳng. À, thì ra chú màỵ Lâu rồi không gặp, chẳng hay nữ chủ của mày dạo này ra saỏ Tôi sụp xuống, định... búng tai nó hỏi nhỏ thì có tiếng con gái Huế dịu dàng:
- Anh Điền đừng búng tai chó nữạ Có búng thì... búng tai Thủy đi nì.
Tôi chết trân. Thủy đang ngồi nhổ lông gà cùng với Hà. Kiểu này chắc tôi nuốt cháo gà không trôi quá. Đang định "cài số de" thì Hà đã mau mắn:
- A, anh Điền... đô. Mần không hết việc mà anh định dồn cho em với Thủy hả? Lại đây!
Hà đẩy cho tôi con gà đang làm dở trên cùng cái mẹt có Thủy đang ngồị
Vậy là... hội ngộ, dù mạnh ai nấy nhổ lông gà, chẳng ai nói với ai một câụ Tôi thì dứt khoát hổng thèm nói với kẻ đã coi tôi là... đồ điên, là bò rống. Còn Thủy hình như cũng đang thủ sẵn móng vuốt để chụp vào từng câu nói của tôi nên dù nửa con gà đã làm sạch trụi rồi mà cô bé vẫn cứ nhè... da mà mổ, chẳng buồn lật mặt dưới lên. Tôi tự an ủi: Cũng đành... liều thôi! Bỗng Thủy hất nhẹ mái tóc, nói:
- Anh Điền nì, Thủy biết anh Điền giận Thủy lắm. Chừ thì... sớm mai anh về rồi, Thủy qua để xin lỗi anh. Anh đừng chấp Thủy... tội nghiệp!
Đúng là... con gái Huế - nhẹ như gió thoảng, ngọt như mía lùị Quả là tôi nghe như có làn gió hiu hiu trong hồn, làm "đầu óc đã từng đậu đại học" bắt đầu hoạt động:
- Không phải, người xin lỗi phải là... anh mới đúng. Thôi mình... huề nghe Thủỷ
Thủy bẽn lẽn gật đầụ
Con chó trắng nhảy tới chồm chồm con gà trong tay tôị Tôi co ngón tay lại, chuẩn bị... búng.
- Búng tai Thủy đây nì.
Thủy hất tóc, nghiêng vành tai trắng hồng về phía tôị Tôi lưỡng lự:
- Để chỉ
- Để... nhớ.
Tôi nghe cõi lòng mình xao động. Vậy thì... phải búng thôi! Mà sao tôi búng một cái... nhẹ hềụ Tay giơ không nổị
Thủy nói:
- Quê em khô cằn sỏi đá nhưng tình cảm thì sâu đậm lắm. Anh Điền vào Sài Gòn nhớ quê em mãi nghe!
Tôi gật đầu:
- Sẽ nhớ... nhớ lắm! Anh sẽ viết thư cho Hà và Thủỵ
Bé Hà đang bắc nồi cháo lên bếp lửa, nói vói:
- Bữa nay Huế không còn khô cằn sỏi đá mô Thủy nờ. Có biện pháp khắc phục rồị
- Biện pháp chỉ
- À... biện pháp xưa như trái đất, nghe rõ đi nì: Dẫn Thủy nhập Điền... hì... hì...
Thủy cười lỏn lẻn liếc nhìn tôi, đôi mắt Huế nồng nàn. Tôi nhìn... con chó trắng. À, đêm nay phải "chiêu đãi" nó ra trò mới được. Phải chi tôi đừng nhập học. Huế ơi... đợi nhé!


Hà Đình Nguyên
READ MORE - HÀ ĐÌNH NGUYÊN - CON GÁI HUẾ

Friday, November 28, 2008

ĐÔNG HÀ

Đông Hà
Những lá thư tình


Những lá thư tình như những nhát dao

Chuôi dao đã tuột về quá khứ

nhiều khi trong cơn mê ngủ

tôi bàng hoàng



Những thư tình viết từ thuở hồng hoang

Có yêu thương cuồng điên thời trẻ tuổi

( Yêu như thể không yêu là chết mất

chẳng hiểu sao lại sống dậy trong lòng )



Những lá thư tình như những nhát dao

Chuôi dao đã quay về quá khứ

cầm sao không chảy máu bây giờ???


CHUYỆN ĐỜI XƯA

TRONG NHÀN ĐÀM HOÀNG PHỦ


ĐÔNG HÀ




Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những cây bút ký tiêu biểu của Huế và cả nước. Anh tung hoành trên nhiều dải đất khác nhau của đất nước nên những trang viết của anh ngồn ngộn chất sống cộng thêm với sự uyên bác vốn có khiến giọng văn của anh càng thêm sang trọng. Anh không chỉ tài hoa trong thể ký mà còn thành công trong lĩnh vực thi ca bởi đây là một người không hề dễ dãi với con chữ chút nào. Với thể loại thơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường là người làm thơ luôn bị ám ảnh bởi “cõi chết”. Thân phận và Con Người, Tình yêu và Cái chết luôn xuất hiện trong thơ anh như trực quan về cuộc sống của riêng mình. Thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường đẹp như nỗi buồn đọng lại. Ở đấy, người ta thấy thơ anh đã được sinh ra giữa sự sống và cái chết, niềm vui và nỗi buồn, giữa cái cô đơn ầm ào tuyệt vọng. Những câu thơ hay của anh thường buồn tha thiết “Mai kia rồi cũng xa người/ Tôi về ngủ dưới khung trời cỏ hoa/ Có nàng xoã tóc tiên nga/ Quỳ hôn cát bụi khóc oà như mưa”. Buồn đến dại khờ, đến đê mê đắm đuối. Nhưng khi đến với Nhàn đàm, dường như anh lại tỉnh táo bình tĩnh đến không ngờ. Vẫn giọng điệu tài hoa sang trọng nhưng bình tĩnh, khác hẳn cái chất giọng đa tình của thể thơ và hoài mang của thể ký.

Đến bây giờ có thể nói người viết nhàn đàm trong văn học Việt Nam chưa nhiều, đây vẫn là một lĩnh vực mới mẻ trong khi trên thế giới thể loại này đã khá phổ biến. Giả Bình Ao ở Trung Quốc đã rất thành công ở thể này. Ở Việt Nam, người viết Nhàn đàm có thể kể ra một vài người tiêu biểu như Thanh Thảo, Tiêu Kim Thuỷ… Và nổi trội, viết đều đặn, đầy tay hơn cả vẫn là nhà thơ, nhà văn Hoàng Phủ.

Nếu trong thơ, Hoàng Phủ làm thơ như thể “viết di chúc để mà chết” theo nhận xét của Nguyễn Trọng Tạo, viết tuỳ bút như để “trằm” cả gương mặt mình vào đất Thần kinh như lời của Tô Hoài thì trong Nhàn đàm anh lại bình tĩnh “lẩy” lên từng hạt cát của cuộc đời để chiêm nghiệm, trở trăn. Những bài Nhàn đàm nhỏ bé, xinh và giàu chất suy tư trăn trở với cuộc phù sinh. Đôi khi chỉ là một điều rất giản đơn nhưng Hoàng Phủ đã khiến người đọc phải giật mình ngẫm ngợi. Và hình như để đạt được cái “ vỗ vai” đầy thâm hậu ấy, thấp thoáng trong những trang viết của mình, nhà văn đã rút tỉa những chất liệu có từ khởi thuỷ xa xưa để nhắc nhớ con người ngày nay, đó là chất liệu đã hàng nghìn năm tích tụ từ kho văn học cổ Trung Quốc.

Điều dễ nhận thấy là trong rất nhiều bài Nhàn đàm của anh thường xuất hiện các tư tưởng triết học phương Đông, mà điển hình vẫn là tư tưởng triết học Nho- Phật – Lão của Trung Quốc. Vốn là một giáo sư triết học nên việc vận dụng những tư tưởng triết học trong những bài viết của mình là điều dễ hiểu. Ngay trong những sáng tác ở thể loại ký, cũng chính chất triết lý sâu xa ấy đã làm nên tầng vỉa lớp mạch cho tác phẩm của anh.

Với Nhàn đàm cũng vậy, cũng những câu chuyện triết học nhưng ngắn gọn vô cùng, đôi khi câu chuyện có thể chiêm nghiệm cả một đời lại nằm vỏn vẹn trong đôi câu nhẹ nhàng quá thể. Bàn về triết học Khổng Tử đôi khi với Hoàng Phủ chỉ là sự tình cờ “Ngẫu Hứng”: “Trải gần suốt đời người dâu bể, thú thật cho tới nay, tôi vẫn chưa đi hết cuộc chuyện trò ngẫu hứng của thầy trò họ Vương trong buổi chiều xa xôi ấy nơi sườn núi. Có ai giúp tôi hiểu tường tận cái Tâm là gì? Có lẽ cũng chỉ cách thô sơ ấy thôi, như lời thầy Nguyễn Đăng Thục, đêm khuya nằm thật yên, nghiêng tai trên gối và nghe tiếng đập trong lồng ngực”. Lời của triết nhân từ xa xưa vọng về, đi hết cuộc đời dâu bể vẫn chưa “ngộ” được đạo, mà giản đơn chỉ lắng nghe tiếng đập của trái tim mình, ấy là đạo. Thuyết Tâm học của Dương Vương Minh sao phải đi dài đến thế khi lại gần ta trong gang tấc đến thế, phải chăng nhà văn đã tìm ra con đường ngắn nhất giúp người đọc “ngộ đạo” khi bản thân mình đã đi suốt chặng đường dài nhân thế?

Hay trong một bài Nhàn đàm khác, nhan đề tưởng chừng vu vơ tính tình tang “Ai đem con sáo sang sông”, anh lai lấy tích xưa của thầy trò Tam Tạng về chuyến qua sông luỵ dò, luỵ đò xong lại quên ngay đấy. Phải chăng đó là một tâm tính xấu con người hay mắc phải? Người đời gọi đó là “qua cầu rút ván”. Còn Hoàng Phủ lại thấy cái ông “Ngô Thừa Ân là một nhà văn thâm Nho”. Quả thế thật, nhân tình thế thái, ở đâu mà chẳng giống nhau, thời nào mà chẳng mang tâm tính con người. Đã là tâm tính, khó có gì lay chuyển nổi. “Non sông dễ đổi, bản tính khó dời”. Nhưng câu chuyện Đường Tăng nợ con rùa trên chuyến sang sông kia vẫn còn đó, gieo cho người đời một nỗi hoài nghi về thế thái nhân tình. Mượn chuyện xưa để nói chuyện nay, Hoàng Phủ đã gieo vào lòng người đọc một nỗi niềm bâng khuâng pha lẫn cái gì đó chát chua khó tả.

Cũng lại mượn tích xưa, câu chuyện Trang Tử mổ rồng, hoá ra Rồng có đâu mà mổ? Con người ta thường tự huyễn hoặc mình bằng những điều vu vơ kỳ quặc. Và tin như thể đó chính là cứu cánh của cuộc sống. Tự đánh lừa mình, hay cũng là đánh lừa nhân thế. Hoàng Phủ đành thú thật, một sự thật dễ làm “mệt tim” những người đa đoan trót đam mê nghiệp dĩ “Tưởng rằng đọc Trang Tử để tìm chút thư nhàn. Hoá ra vẫn thế, ngọn đèn khuya, trang sách cũ, và mái tóc hoa râm rối bời…” ( Sát Long chi bối). Hoá ra con người từ truyền kiếp, vẫn hay mơ tưởng chuyện xa xôi, khi giật mình tỉnh lại, vẫn là thực tại cũ, những niềm hụt hẫng cũ, những nỗi niềm chát chua xưa cũ… Vậy mà sao vẫn đi tìm, vẫn huyễn hoặc mình dù biết đó là điều không có thật? Hoàng Phủ là người biết điều ấy, khổ thay lại biết điều mà con người ta bao lâu nay không thể nào tránh khỏi, cả khi biết rồi cũng không thể nào tránh khỏi, nên chuyện cũ tích xưa vẫn còn nguyên, mới rợi.

Hay một câu nói của người xưa, “xích tử chi tâm”. Có lẽ, khi Mạnh Tử chiêm nghiệm điều này, hẳn Ngài cũng không ngờ hậu thế lại cứ mãi trở trăn muộn phiền đến thế đâu. Vậy nhưng với Hoàng Phủ, dường như trong con người này, lúc nào đụng đến chữ “Tâm”, lại như không hề yên ổn. “Thế giới mãi trầm luân trong lửa và máu, chính bởi con người đã đánh mất “ xích tử chi tâm”, để đổi lấy hận thù làm quyền sống” (Bài học vỡ lòng của tôi). Trái đất ngày một nóng lên, bởi môi trường, bởi bầu khí quyển, bởi vòng xoay ngày một vội vã, và cả bởi chiến tranh. Quyền lực, tiền bạc, tham vọng, mưu đồ…tất cả như trộn lẫn, nhào nặn lên làm thành một khối “hận thù” để đổi lấy hai chữ Hoà Bình. Cổ nhân đã từng thấy điều đó, đã “khuyến cáo” chúng ta điều đó, vậy tại sao lại quên khi lẽ ra không được có quyền quên? Hoàng Phủ đã chỉ ra cho chúng ta điều ấy, liệu mấy ai trên thế gian này một lần nữa lĩnh hội ra? Khi mà quyền lực, đồng tiền vẫn còn ở ngôi vì thống lĩnh?

Kinh Dịch vốn là kho tàng thi liệu, văn liệu tuyệt vời và bất tận cho các văn nhân đời sau khai thác. Cũng từ kho báu chữ nghĩa đó, Hoàng Phủ đã khai phá cho người đọc những cơ hội lĩnh hội diệu kỳ. “Quẻ Vị Tế” là một trong những điều kỳ diệu đó. Bàn về Kinh Dịch, không cao tay sẽ rơi vào sự sợ hãi về chữ nghĩa. Nhưng với Hoàng Phủ, người đọc “ngộ” ra những điều thật sâu sắc mà lại đơn giản vô cùng, Vị Tế là một thông điệp vĩnh hằng về phận người: “Hỡi người, người sinh ra không phải để yên nghỉ mà lên đường, lên đường bằng tất cả âu lo của kẻ vượt sông”. Tất cả những lời giải trình về thân phận con người dường như chỉ vỏn vẹn trong chuyến vượt sông đầy định mệnh ấy. Có người đã nói rất buồn rằng “Đời người là quán trọ/ Ung dung nào mấy ai”. Nói về thân phận cuộc đời, không hiểu sao thường ám ảnh về một dòng sông. Heraclit có câu nổi tiếng “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”. Sau này, những chuyến đi của con người cũng trên dòng sông. Mà có phải ai cũng biết bơi và bơi giỏi đâu. “Lỡ bước sang ngang” thôi mà. Nên hầu như đã là người, chuyến sang sông nào mà không thấm đẫm âu lo? Đến bây giờ, nhân loại vẫn từng phút giây chen chúc nhau sang sông, trên chuyến đò Bát Nhã. Và quẻ Vị Tế kia, như Hoàng Phủ đã chỉ ra, rằng đời người là một cuộc hành trình không ngơi nghỉ, còn ôm theo nỗi thắc thỏm của kẻ vượt sông…

Không hiểu sao, ở thể ký nhiều lúc giọng văn Hoàng Phủ còn có chỗ tươi, thì trong thơ lại buồn đến đứt ruột, và ở Nhàn đàm cũng vậy, những bài viết ngắn chút xíu, vậy mà vẫn lộ ra giọng buồn da diết. Cái “tạng” nó thế, hay bởi những câu chuyện anh viết thường buồn? Có lẽ tại cả hai. Như câu chuyện “ Cừu Dolly và câu chuyện kiếp sau”. Bàn về công nghệ sinh học hiện đại hẳn hoi, vậy mà trong anh vẫn mang mang câu chuyện cổ xa xưa từ … Trung Hoa cổ đại, rằng “nếu có một kẻ tình si nào đó bị buộc phải chia lìa trong cõi đời này (thí dụ như anh Trương Chi chẳng hạn), thì vào đêm trước khi chết, chàng xin được uống nước sông Hoàng Hà, để kiếp sau gặp lại, chàng sẽ nhớ và nhận ra người yêu dấu của mình trong tiền kiếp. Phút “nhận mặt người quen” đó thường xảy ra trong một cuộc gặp gỡ tình cờ, bằng một sức mạnh làm choáng váng, gọi là “tiếng sét ái tình” (Coup de foudre)”. Những cuộc tình đẹp trên thế gian thường là những cuộc tình buồn. Nhưng điều an ủi giúp những kẻ buồn tình ấy là khái niệm về “kiếp sau”. Có lẽ, ảo vọng về cái kiếp sau ấy giúp họ sống tốt hơn ở kiếp này khi đã trót có cuộc đời buồn đến thế chăng? Trịnh Công Sơn cũng đã từng quan niệm về cuộc đời chỉ là thân phận của con chim di, con phù du bay ngang cõi trần thế, chỉ là “ở trọ’ thôi mà. Bàn về cái mới nhưng lúc nào tâm trạng Hoàng Phủ cũng vấn vương những điều muôn năm cũ…

Trong “Một chuyến tàu” cũng vậy,“Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ” (Đừng buồn rằng con đường trước mặt không có ai là người tri kỷ). Những chuyến tàu xuôi ngược ngang qua, thật khủng khiếp nếu đó chỉ là chuyến đi đơn độc. “Những chuyến tàu từ Đông sang Tây, từ Tây sang Đông” quả thật khiến “Một ngày dài hơn thế kỷ”. Từ xưa, cổ nhân đã cần người tri kỷ, bây giờ con người vẫn cần điều ấy hơn hết, khi mà ngồi trong căn phòng tiện nghi, chỉ một cái nhấn nút có thể với tay ôm cả thế giới vào lòng, nhưng lại bơ vơ vô cùng khi muốn chia sẻ một điều gì đơn giản, khó đến đau lòng.

Mượn chuyện xưa để nói chuyện nay, khó ai có thể tài tình khéo léo như Hoàng Phủ. Những triết luận về cuộc đời từ những câu chuyện cổ được anh giãi bày thật nhẹ nhàng mà mang sức nặng ngàn cân của con chữ. Vì vậy văn phong anh ngắn gọn mà cô đọng hàm chứa biết bao điều.Thiết tưởng không phải ai cũng có được một “nội công thâm hậu” ấy, nhất là khi đang ở trong cơn bạo bệnh tưởng chừng không thể nào gượng lên được. Vậy mà anh không chỉ “gượng” qua cơn bệnh, hơn thế nữa, với những gì anh làm từ con chữ, chúng tôi gọi đó là một sự “tái sinh”, như thể cuộc đời anh là hai kiếp người cộng lại, bây giờ anh đang sống tiếp kiếp thứ hai của mình. Nên văn chương anh vẫn mới mẻ, tràn đầy ngữ nghĩa trong mỗi câu chữ anh góp nhặt để lại cho đời, như con chim oanh vũ mỗi sáng tinh khôi vẫn tha về từng hạt gội, nhảy nhót tưng bừng trong “thành phố vườn” thơ mộng của anh.


ĐÔNG HÀ

READ MORE - ĐÔNG HÀ

CAO HẠNH


BÀI CA ĐIỆU LÝ

Truyện ngắn của CAO HẠNH


Tôi sinh ra ở làng quê, lớn lên cũng ở làng quê. Tôi là hạt máu đỏ rơi xuống bùn đất mọc lên một thằng người cùng với ngọn cỏ lá rau cây lúa và những sinh linh khác. Tôi cùng chịu đựng chia sẻ với chúng ngọn gió Lào cát trắng và những trận mưa dầm dề của xứ miền Trung khắc nghiệt.


Nhìn trên bản đồ Việt Nam tôi biết quê tôi chỉ là một cái chấm xanh rất nhỏ, không biết so với toàn cầu thì quê tôi còn nhỏ tới đâu nữa, vì quê tôi chỉ có ba trăm héc ta đất thôi. Nhưng dù nhỏ đến bao nhiêu, quê tôi vẫn là một cộng đồng có mặt trên địa cầu từ thuở hồng hoang với những nét văn hoá riêng góp vào cuộc sống nhân loại.

Đứng trên cầu Sa nhìn xuống thấy một vật xanh kéo dài từ chân núi Tá đến hồ Mây, đó chính là nới tôi đã cất tiếng khóc chào đời. Mẹ ru tôi bằng điệu lý. Ôi điệu ru suốt một đời khắc khoải giữa hồn tôi. Sau này lớn lên tôi được nghe lại điệu ru ấy từ núi Tá vọng về - Nơi bố con lão Sáu mù ngồi đàn hát giữa chín tầng mây. Người con gái ấy tên là Sen có nước da nõn trắng, đôi mắt như hai giọt nước, nhìn tôi với cái nhìn thanh khiết đến lạ thường. Cứ mỗi buổi chiều khi mặt trời sắp tắt, tôi thường lẻn ra ngồi dưới chân núi Tá để nghe tiếng đàn rơi buốt trong mây và giọng ca cô gái nhỏ chuốt giữa không trung, lúc vút lên đến vô cùng tưởng như đẩy cả trời xanh lên cao vời vợi, có lúc rơi hẫng đến tận cùng khiến nước hồ Mây lăn tăn gợn sóng.


Mẹ tôi nói: “Thằng này phải lòng con bé của lão Sáu mù rồi, phải đi ăn hỏi gấp không có dễ sinh chứng si tình”. Phải lòng hay không tôi chẳng biết, tôi chỉ thấy mình rất thích nghe đàn hát, ngắm cảnh sương khói hồ Mây núi Tá bốc lên hoà quyện vào nhau để luỹ tre làng đẹp như ảo ảnh. Các cụ xưa nói đó là nguyên khí của đất và nước. Nguyên khí mạnh thì làng quê vững “Đá trôi mà làng không trôi”. Sau này vào nghiệp văn chương, đọc sách cổ tôi mới biết được nguyên khí có giá trị như thế nào. Tôi biết ở Trung Quốc nhờ có đỉnh Kai-las (phía Ấn Độ) mang nguyên khí vào hồ Ras-ka-tal và được dòng sông Hoàng Hà và Dương Tử mang đi để tạo nên nền văn minh Trung Hoa. Chẳng biết cụ tổ làng tôi có thạo sách pháp địa không mà chọn nơi đây dựng xây cơ nghiệp. Các cụ nói quả không sai, quê tôi trải qua bao biến động thăng trầm của thiên nhiên và lịch sử, màu tre xanh ấy có lúc lụi tàn, tàn lụi rồi trở lại xanh rức, tạo thành một tấm màn xanh dựng ở chân trời. Tấm màn xanh ấy đã mở ra cho bao nhiêu cuộc đời, bao nhiêu số kiếp, người ở, người đi, sinh tồn cùng nhân lại. Và dù đi đâu, ở đâu sung sướng đến mấy, người quê tôi vẫn không mất đi cái chất trần ai khắc khoải của điệu Lý. Đất này là đất trăm họ. Mỗi dòng họ có gốc gác khác nhau, nhưng người quê tôi có chung dòng máu thượng võ pha chất phóng đãng của thi nhân. Hùm beo không sợ, giặc giã không kiềng chỉ sợ điều nhân nghĩa.


Thuở xưa quê tôi có nghề bắt cọp. Nguyên nhân sinh ra nghề này cũng đơn giản thôi. Chả là thời bấy giờ làng tôi năm trên cánh rừng từ chân núi Trường Sơn chạy dài về biển. Hổ, báo nương theo cây cối lau lách tìm về, lấy làng tôi làm nơi trú ngụ. Người buộc phải ở chung với hổ. Cuộc sống hằng ngày xảy ra biết bao cảnh chết chóc tang thương. Không chịu đựng nổi, người làng tôi phải tìm mọi cách để trừ khử chúng. Đó là luật sinh tồn. Họ đã vào rừng lấy vỏ cây làm mác! Quyết liều một phen với loài hung thú. Cuộc chiến đấu làm cho biết bao chàng trai phải chết, cuối cùng thì họ cũng bắt được hổ. Từ chỗ bắt được một con, đến hai con dần dần trở thành kinh nghiệm truyền kiếp. Tiếng tăm lẫy lừng khắp nơi lan đến tận cung đình, nhà vua bèn sai các quần thần về xem xét, thấy có thật, từ đó nhà vua có chiếu chỉ sai làng tôi đi bắt hổ nộp triều đình. Chuyện được vua sai đi bắt hổ, người làng tôi chẳng lấy gì làm vẻ vang, họ chỉ sung sướng một điều là đuổi được hổ ra khỏi làng.....


Thời chiến tranh, dù là chiến tranh chống Pháp hay chống Mỹ thì làng tôi vẫn là mục tiêu huỷ diệt của kẻ thù. Nhưng người làng tôi “một tấc không đi, một ly không rời!” họ quyết bám làng bám đất. Giặc đến là đánh! Giặc đi là tiếp tục sản xuất. Cuộc sống thời chiến bộn bề công việc làm người ta phải dồn hết sinh lực có khi quên ăn. Nhiều lúc đang làm đồng, máy bay đến ném bom, mọi người phải tạm gác cuốc cày vào vị trí chiến đấu. Cha vác đạn, mẹ tải thương, con bám chặt bệ pháo. Máu cha đẫm trên ngực con, máu con đầm trên tóc mẹ. Gian khổ đau thương là thế mà người ta vẫn sống lạc quan. Đêm đến, anh đàn chị hát, tiếng hát vượt lòng đất bay lên lung linh cả sao trời.

Điều lạ thay sau ngày giải phóng, cuộc sống quê tôi không còn được sôi động như trước nữa. Sau buổi hò reo mừng chiến thắng, nét mặt người ta dần dần trở nên ỉu xìu. Họ sống trong tâm trạng tính toán lo âu. Hằng ngày thấy họ thơ thẩn trên các mảnh vườn, hoặc rải trên các đồi hoang ngó ngàng tìm kiếm, cầu nhặt được một cái gì đó, một tí mảnh bom hay một cái ống liền đem về đổi gạo. Công việc nhà nông một năm sản xuất hai vụ lúa, chỉ thực hiện hết một phần hai quỹ thời gian còn lại họ chẳng biết làm thêm việc gì để tăng thu nhập, buộc phải lao vào những việc không tên, bận bịu suốt mà chẳng có hiệu quả kinh tế.

Ông Sáu mù là người suốt một đời cào cấu với đất đai, kết quả vẫn hai bàn tay trắng. Những ngày đó tính tình ông thay đổi hẳn.

Từ một người vui vẻ sảng khoái ông trở nên trầm buồn. Nghe nói đêm đang nằm ngủ, ông vùng dậy đốt đèn hút thuốc than thở một mình “Đất nước đã hoà bình rồi, người dân trở thành ông chủ - Nhưng ông chủ không biết làm gì để mà ăn....Tức thật!”. Ông đấm tay vào trán dằn vặt cho đến sáng. Hàng ngày người ta thấy ông lang thang trên các ngọn đồi, tối đến leo lên núi Tá ngồi khóc dưới trời. Mấy năm sau ông đổ bệnh mù cả hai mắt. Ông sai đứa con gái dắt ông lên núi Tá đàn hát giải sầu “Chiều ơi chiều......chiều ơi chiều....”. Mẹ tôi nói đó là tiếng gọi hồn. Cha con nhà ông Sáu đã điên không khéo làm cho nhiều kẻ điên theo. Mẹ chỉ tay ra ngọn đồi nơi có mấy người đang ngó ngàng tìm kiếm mẹ bảo: “Con thấy chưa, nó hút hồn người ta bắt người ta phải thất thuể bơ vơ, lẩn quẩn khắp đó đây, cả sương khói cũng cuốn tròn theo”. Từ đó mẹ sinh ra thù ghét bố con nhà ông Sáu, tuyệt đối không cho tôi gần gũi với cô Sen. Buồn chán tôi bỏ nhà ra đi.


*

Lũ chúng tôi gồm bốn thằng: tôi, Khánh, Kha, Công. Chúng tôi xuyên rừng vượt suối mà đi vào tận “Thâm sơn cùng cốc”. Những nơi mà chưa hề có ai đặt bàn chân đến.

Mọi sinh vật ở đây chưa hề được tiếp xúc với con người. Tôi nhìn thấy lũ bươm bướm đủ các loại đen tím vàng đậu kín bờ khe, nghe động bước chân người, chúng khua nhắng cả lên làm chúng tôi rối cả mắt. Bốn đứa chìm ngập trong đàn bươm bướm.

Ếch nhái và những loại côn trùng khác cũng kêu lên inh ỏi. Hình như chúng tôi đã vi phạm đến thế giới của chúng. Bỗng thằng Kha kêu lên: “Ối giời ơi!”. Nó chỉ tay vào một bờ đá. Một con rắn có mào đỏ như mào một chú ngan đực vỏng cao đầu, xỉa xỉa cái nọc độc về phía chúng tôi. Bên cạnh nó là một chú ốc sên bình yên vặn mình trên tảng đá một cách chậm rãi. Luật rừng rất dữ dội, nhưng chắc cũng có một độ mềm để cho những sinh linh nhỏ tồn tại. Chúng tôi vừa đi vừa giật lùi, đưa cao gậy thủ thế, hễ có rắn kia lao đến là quật liền. Nhưng chú rắn thấy chúng tôi rời xa, nó ngoắng ngoắng cái cổ mấy cái rồi rụt lại trong hang im ỉm. Thằng Kha lại cười lên sằng sặc khi nó nhìn lên thấy một chú khỉ mù ngồi múc nước bên khe. Chú khỉ này có thể do bệnh tật hoặc do chiến tranh, bị chất độc hoá học mà mù. Ở rừng té ra cungx có những số kiếp đáng thương như vậy. Một tiếng quát to làm chúng tôi giật mình. Một gã tóc quăn mình mẩy trần truồng mặt mày đen nhẻm như người thị tộc da đỏ, từ suối rượt lên, hai tay lăm lăm hai đá chực ném, mắt trợn dọc nhìn chúng tôi.

- Đứng lại! Ai cho chúng mày vào đây.

Thằng Công tái mặt ú ớ “Khu....vực....này cấm hở anh?” - “Cấm! Đây là địa bàn của chúng tao khai thác mày hiểu chưa?” Gã kia nói như hét. Mặt thằng Kha đỏ phừng. Tôi biết nó đang điên tiết, liếc vội mắt ra hiệu cho nó phải dừng. Ở rừng, chỉ cần chạm lòng nhau một tý là có thể xảy ra chuyện binh đao ngay, tốt nhất là chịu nhịn. Tôi ôn tồn bảo hắn: “Xin lỗi, bọn em bị lạc đường sa vào địa phận của các anh, bọn em sẽ đi ngay”. Gã kia ngoảng lại, lầm lũi xuống suối. Chúng tôi ghé mắt nhìn theo. Thấy gã ngồi xuống bên hai người đàn ông cũng trần truồng như gã. Hình như bọn chúng thịt một con gì. Nhìn kỹ té ra đó là một thây ma. Họ lấy dao xẻo từng miếng thịt vứt xuống suối, lấy xương bỏ vào bao tải. Tôi biết số phận của người đi trầm, không may bị chết thì đồng bọn không còn cách nào khác là phải phân thây xẻ thịt lấy xương đem về mai táng. Vì đường xa xôi, cây cối chằng chịt, làm sao mà khiêng xác về được. Trông thấy họ mà tay chân chúng tôi cứ bủn rủn, tâm thần hoảng loạn, gắng nhấc từng bước. Chúng tôi đi chệch về phía Tây, leo lên một ngọn núi cao. Trên đó chỉ thấy những cây to chết đứng. Dưới gốc của một cây già nua có một chồng dây mây khoanh tròn, tưởng như có một bàn tay ai buộc chặt. Ba thằng ngạc nhiên phán đoán. Thì ra, cây mây kia leo lên cây đa, lâu ngày nó không còn độ bám, hàng năm cứ rơi xuống một vòng và cứ như thế sắp thành một đống, như buộc chặt lấy cây kia. Chúng tôi leo dần. Đói. Mệt. Dưới chân chúng tôi đá tai mèo lởm chởm. Xương trắng rơi đầy. Xương nhỏ - xương to. Xương của động vật vừa mới chết. Xương đã cách đây hàng trăm năm bạc phếch màu vôi. Bước chân chúng tôi cứ ríu lại, không còn đi được nữa. Cả bốn đứa ngã kềnh xuống đá chẳng kể gì hôi hám bẩn thỉu. Vừa nằm được một lúc thằng Kha kêu nhức đầu, lát sau nghe nó rên hừ hừ. Trán nó nóng hầm hập, miệng mồm khô rát, chân tay cứ co rúm lại. Tôi nghĩ số phận thằng Kha không khéo cũng sẽ như thây ma nọ. Tôi bật dậy “Thôi về bọn bay!” Thằng Công hùa theo “Nửa tháng trời rồi, trầm trà chẳng có cóc xơ gì, lại ốm đau nữa....Thôi về!”.

Chúng tôi dìu thằng Kha xuống núi lúc chiều tà. Bỗng tôi nghe văng vẳng đâu đây bài ca điệu Lý. Không rõ bài ca từ đâu vọng đến hay từ hồn tôi vẳng ra mà nghe sao da diết buồn thương:

“Chiều ơi chiều.....chiều ơi chiều.....
Dắt ơ bạn....
Đèo qua đèo
Mà là đèo qua đèo....”

*

Chị Bảy tôi nói: Em ra Hà Nội với chị, chị sẽ nuôi em ăn học. Nghe chị nói tôi như mở cờ trong bụng. Tôi biết từ hôm chị về thăm nhà đến nay, đêm nào mẹ cũng trầm trồ: “Con phải bằng mọi cách đưa thằng Huỳnh ra Hà Nội để thoát khỏi cha con Sáu mù. Mẹ thấy từ dạo nó đi trầm về đến nay, chẳng chiều nào mà không ra đứng ở hồ Khe Mây để nghe cha con lão kia đàn hát, mặt mày cứ trông ngây ngô, ngơ ngơ ngác ngác, nó si tình thật rồi con ơi”.


Tôi chẳng nghe chị trả lời. Tôi biết hoàn cảnh chị đang rất khó, vừa mới theo chồng ra Hà Nội một năm, kinh tế gia đình chưa ổn định lấy đâu ra mà nuôi tôi. Bây giờ chị nói với tôi như vậy, có lẽ chị đã đắn đo, tính toán kỹ rồi. Tôi gật đầu với chị tỏ vẻ rất mừng. Mặc dù ra Hà Nội sẽ xa Sen, nhớ nhung vô vàn, nhưng tôi phải đi vì tương lai sự nghiệp.


Trước ngày ra đi, tôi tìm mọi cách để gặp Sen. Tôi đi lại thẩn thơ dưới chân núi Tá đến nửa tiếng đồng hồ mà chẳng thấy em đâu. Một lúc sau thấy có một bàn tay hồng đưa lên trong sương, tiếp theo là một tiếng gọi “anh Huỳnh”. Em từ trong sương chạy ra, mặt mũi tóc tai còn đầm đìa sương lạnh, nở một nụ cười trông thánh thiện ngây thơ:

- Nghe nói anh đi Hà Nội hả?
- Ừ
- Đi ở lại hay đi rồi về.
- Ở lại để học nghề.
- Học nghề xong anh ở luôn ngoài đó à?
- Chưa biết nữa.

Nghe tôi nói, nụ cười trên môi em vụt tắt. Đầu em cúi xuống, tay khẽ vày vò cái đuôi tóc đang xoã xuống trước ngực. Tiếng em khe khẽ:

- Thế ....chuyện của chúng mình thì sao?

Anh cũng chưa biết tính thế nào. Nhưng tóm lại tình cảm vẫn như cũ.

Em hất mái tóc ra sau lưng, cầm tay tôi:

- Anh phải ở lại đi. Ở lại với em....em đã lớn rồi, từ nay em không dắt cha đi hát nữa....Em sẽ đi làm việc.....và.....nếu như anh thương em thật lóng thì chúng mình sẽ cưới nhau, sẽ làm ruộng, sẽ đẻ con, xây dựng tổ ấm gia đình mình.
- Anh cũng mơ ước như thế. Nhưng Sen ạ, anh phải ra đi, đi....trước hết để giải thoát cho mình sau đó là cho em.
- Em không tin.
- Tin hay không thì tuỳ em, nhưng việc anh đã quyết.

Sen ngoảnh về phía núi. Khói sương từ trên cao oà xuống như hút lấy bóng em. Tôi chỉ thấy đôi gót chân hồng đặt lên phiến đá, nhấc từng bước, từng bước, nhoà dần và mất hút.

Em chẳng để lại một tiếng khóc, một lời chào. Mãi đến khi tôi lầm lũi bước ra về, nghe tiếng đàn ca từ trên núi vọng xuống - da diết một nỗi buồn. Tôi biết đó là lời giã biệt.

“Lòng ơi lòng....Lòng ơi lòng....
Trách ơ bạn.....Trách ơ bạn
Đành sao đành
Mà là đành sao đành”

*

- Cậu cố gắng mà học đi chứ. Cậu có biết không? Mẹ đang lo cho cậu lắm đấy....

Tính chị tôi là thế, hay cáu gắt, được cái thương em. Từ ngày tôi ra Hà Nội đến giờ, chị cứ bám sát một bên bày cho tôi học. Anh Nam chống chị đi làm đến tám chín giờ đêm mới về. Tôi hỏi chị “anh là nhà thơ sao chẳng mấy khi anh rảnh rỗi thảnh thơi?” Chị cười “Từ ngày có chị ra đến giờ, anh phải tranh thủ viết thêm nhiều bài để lấy tiền nhuận bút, ngoài ra còn phải quan hệ với các nhà xuất bản, để lấy bài về cho chị đánh máy”. Chị còn kể: lúc đầu chị mới ra, gia đình cũng chật vật lắm. Con gái nhà quê học hành chẳng biết làm gì, hàng ngày chỉ ngồi nhìn ra đường thấy người xe đi như nước chảy, để đêm về bứt rứt tâm gan. Thấy chị buồn anh mua cho chị cái máy chữ, bắt học đánh máy và nhận bài về cho chị nhập. Một tháng, các nhà xuất bản trả cho chị đến ba trăm ngàn đồng như vậy cũng bằng tiền lương cán bộ. Nếu quy ra thóc thì đã hơn một tạ so với nông dân thì sướng xa. Tôi có ao ước trở thành như chị. Trong lúc nhân loại đang tiến xa mà tôi chỉ muốn được như chị tôi thôi, thế mới biết tôi thấy mình nhỏ bé đến từng nào. Hàng ngày tôi lao vào công việc học tập, gõ lên bàn phím đau nhức mười đầu ngón tay, thế mà có lúc nghe chị quát tháo om sòm. Mặc kệ, tôi chẳng tự ái phải cố gắng như chị. Ôi! Một tạ thóc! Một tạ thóc chỉ cấy bằng phím máy, cấy bằng con chữ chứ đâu phải vất vả một nắng hai sương trên đồng....


Khi tôi thành thạo công việc, cũng là lúc một cái tin sét đánh đến với chị tôi, rằng anh rể tôi bị tông xe ngoài ngã ba đường phố. Chúng tôi chưa kịp chạy ra, thì có người đã dìu anh tôi về. Đó là hai người đàn ông dáng vẻ trần ai. Một người dìu anh tôi còn một người dắt chiếc xe Bảy tám của anh đã vỡ hết mang. Họ đặt anh xuống giường mặt mày anh xây xát, đầu tóc bù xù trông thiểu não. Chị tôi chạy vào buồng mở tủ lấy cồn xoa vào các vết xước cho anh, hỏi anh có làm sao không. Anh lắc đầu: “Chẳng việc gì”. Hai người đàn ông cho hay rằng: Anh là bạn xe thồ với họ, thấy anh mắc nạn giữa đường họ đem về. Chị tròn xoe mắt hỏi: “Làm sao lại có chuyện này”. Anh chẳng nói chẳng rằng, nằm ngửa xuống giường thở dài thườn thượt.


Sáng hôm sau anh mới nói chuyện anh đi thồ là có thật. Vì thấy chị không có việc làm buồn bã suốt ngày nên anh phải đi thồ để kiếm tiền mua máy chữ cho chị đánh giải khuây. Và số tiền ba trăm ngàn đồng hàng tháng là anh trả cho chị, chứ không phải nhà xuất bản nào trả cả. Nghe nói, chị bàng hoàng, vừa bực tức vừa thương người chồng tốt bụng. Chị dúi mặt vào vai anh khóc rưng rức. Chị khóc như mưa lũ. Còn tôi tròn xoe mắt nhìn hai người. Thế ra anh tôi thương chị tôi đến mức như vậy? Thế ra lâu nay tôi hoài công đi học với một người không có việc làm? Bao nhiêu nỗi chán chường bi quan, lo lắng ập vào lòng tôi. Đêm ấy, tôi không thể nào chợp được mắt. Sáng mai tôi quyết định ra về. Anh chị tôi phải níu kéo mãi, bắt ở lại. Nhưng tôi nhất quyết không nghe. Chị tôi dúi vào tay tôi một trăm ngàn đồng, vít đầu tôi xuống khóc nức nở. Tôi ra ga một mình. Bây giờ tôi cũng không biết đi về đâu. Nếu về quê thì thật hổ mặt mà đi nữa thì không khéo thành kẻ giang hồ. Tôi la cà ở sân ga suốt một buổi sáng. Trong lúc đang buồn, nhìn thấy mấy ông cửu vạn càng buồn thêm. Họ mặc áo lính bạc màu, đầu đội mũ cối, ngồi chờ chực trên sân ga, hễ ai gọi người làm tất cả bu đến. Phần lớn họ là người Thanh Hoá, cũng miền Trung quê tôi cả đấy. Nhìn họ, tôi chạnh lòng nhớ đến điệu ca:

“Chiều ơi chiều....chiều ơi chiều...”

*

Sài Gòn, đêm mùa đông lãng vãng hơi sương. Sương rất mỏng vừa đủ để người ta có cảm giác đến mùa đông. Ánh điện sáng rỡ làm cho mảnh trăng bạc phếch, đứng vô duyên giữa trời. Nhìn trăng, tôi nhớ quê. Chẳng hiểu sao, ông cụ tổ làng tôi thời đó không vào đây lập nghiệp. Ở đây không thấy một tí nguyên khí nào sao người ta tấp nập đến vậy? Phải chăng thời bấy giờ ông cụ không đủ điều kiện để vào đây, hoặc đã vào nhưng lại bỏ ra thì thật là điều quái gở. Ở đây địa hình cũng chẳng có gì bằng phẳng. Những con đường như gồng mình lên với hàng vạn người, xe. Cuộc sống xô bồ như một cuộc đuổi bắt. Tôi nhìn thấy bên góc sân ga có ba người cứ lò dò ngó ngàng khắp nơi. Thằng Khánh! Đúng là thắng Khánh rồi cả thằng Kha thằng Công nữa, cái dáng người làng tôi lẫn vào đâu được, đi trên thành phố mà dò dẫm theo lối bước ở đồi hoang....Tôi la lên: “Khánh, Kha, Công! Bọn chúng mày đó hả?” Chúng nó nhìn ra tôi mừng rơn. “Huỳnh!....” Chúng tôi ập vào nhau.

- Mày vào đây từ bao giờ?
- Đi một mình hả?
- Từ Hà Nội đi tuột vào đây chứ?

Chúng hỏi rối rít làm tôi không trả lời kịp, chỉ gật đầu. Tôi vỗ vai thằng Khánh:

- Các cậu làm nghề gì ở đây?
- Đủ thứ, bốc vác hàng thuê, xách giùm hành lý, kiêm cả cò mồi.

Chúng tôi cười rộ. Thằng Khánh nhảy tưng tưng hoan hô người làng - Người làng vạn tuế! Vạn vạn tuế! Cả bọn lại được một trận cười tức bụng. Chúng nó vào đây mới một năm mà nom thằng nào cũng ngáo. Thằng Khánh từ một đứa lém lỉnh chuyển sang xạo. Thằng Kha lúc ở nhà thật thà ít nói bây giờ tạo thành kẻ lầm lì. Còn thằng Công to khoẻ đẹp, bây giờ để râu tóc dài, ra tay võ biền. Chúng nó đều đóng vai hợp cả. Tôi vỗ vai thằng Công: “Chúng mày làm gì mà nom mặt mày thằng nào cũng ngổ ngáo?”. Thằng Khánh cười toe toét, chỉ tay vào từng đứa:

- Công là đại ca, Kha là đệ tử, còn mình là quân sư. Đố thằng nào dám động.

Thì ra chúng phải dị dạng như thế mới làm ăn được. Tôi nhớ những lúc đi rừng thằng Khánh bảo phải sống cho ra người thì hung thú nó mới sợ. Còn bây giờ chúng nó phải làm cho ra thú thì con người mới sợ. Cuộc sống bắt người ta xù lông cánh ra là thế.

- Thôi đi nhậu - Thằng Kha nói như ra lệnh.

Chúng tôi cầm tay nhau rảo bước trên đường. Đêm đã khuya, Sài Gòn vẫn nhộn nhịp. Hàng hoá trưng đầy. Tôi để ý đến những biển hiệu có ghi: “Hương đồng”, “Gió đồng”, “Đồng nội” vv....

Chao ôi! Đồng quê sao bị người ta lạm dụng đến thế, những hương sơ tinh tuý của đồng quê đều được đưa ra để khêu gợi lạc thú người đời. Thằng Khánh bảo: “Lâu ngày gặp nhau, hôm nay nhân có thằng Huỳnh vô, cả đời nó chưa nếm mùi thành phố, hôm nay chiêu đãi một bữa bia ôm cho nó đã”. Công và Kha gật đầu tán đồng. Chúng kéo tôi vào một quán trong hẻm, gọi là quán “Hương Sen”. Bên ngoài ánh điện sáng trưng, bên trong nhấp nháy ánh sáng màu tím hồng. Chúng tôi như lạc vào chốn bồng lai. Những cô gái từ trên cầu thang bước xuống như những nàng tiên đi trên cầu vồng bảy sắc mồm đon đả chào mời, mà đôi mắt trống hoang lạnh lẽo. Mùi phấn son thơm ngậy toả ra từ da thịt các cô. Chưa nói đến chuyện ăn uống gì ba cô gái đã sà vào lòng của ba chàng trai. Thấy tôi đang cô đơn thằng Khánh bảo: “Ông yên tâm lát nữa sẽ có một em đặc biệt phục vụ”. Có lẽ nó bấm chủ hàng rồi. Tôi hồi hộp chờ đợi. Lại trên cầu thang kia xuất hiện một cô gái có vóc người thon nhẹ. Khuôn mặt trái xoan của cô làm tôi hơi ngờ ngợ. Cô dừng lại trước mặt tôi cúi đầu chào. Cô ngước nhìn tôi, đôi mắt cô như hai giọt tối ngủ quên dưới đôi lông mày rậm bỗng sáng bừng lên, hút vào tôi hết thảy một linh hồn. Đúng là em rồi. Tôi chưa kịp thốt lên thì em đã quay đi, bước tất bật lên cầu thang. Tôi thảng thốt gọi theo:

- Sen! Sen!

Em luồn lủi vào bóng tối không quay lại. Tôi nói với bọn bạn: “Đúng là cái Sen làng ta - Các cậu có nhận ra không?

- Có. Đúng là nó.
- Chẳng biết nó vào đây từ bao giờ?

Mấy thằng đều ngỡ ngàng nhìn nhau. Tôi như kẻ mất hồn, người chìm sâu trong im lặng. Em đúng là người của tôi rồi. Người con gái có vóc người thanh thoát, và khuôn mặt trái xoan hiền lành. Thuở ấy tôi yêu em lúc em mười sáu tuổi. Em đẹp và hiền như một nõn sen. Chúng tôi nguyện thề sẽ lấy nhau, sẽ sinh con đẻ cái trên làng quê này. Đứa con đầu lòng của chúng tôi phải là đứa trẻ nõn nà, thơm như hương lúa. Thế mà bây giờ, giấc mơ ấy không còn nữa. Cuộc sống đã làm tôi mất em.

- Phải đưa người đẹp của làng mình về lại thôi.

Thằng Kha đập tay xuống bàn nói, làm tôi sực tỉnh. Ba cô gái kia bĩu môi:

- Có mà của trời. Ở đây người tứ xứ, biết ai người làng ai không?
- Biết chứ, nó là con ông Sáu mù người làng tao rõ ràng.
- Ở đây chỉ có làng chơi, chứ không có làng xóm đâu! Cho xin tiền.
- Bao nhiêu?
- Hai trăm ngàn đồng.
- Mấy chai?
- Hai mươi chai.
- Cứa khiếp thế!
- Còn miễn tiền bo đấy.
- Này cầm lấy. Thôi đi ăn thịt chó bọn mày. Uống bia ôm gặp người làng thật xui xẻo, đi ăn thịt chó vậy!

Chúng tôi kéo nhau vào quán thịt chó ở ngay bên cạnh.Thằng Công gọi hai đĩa và một xị. Thịt thơm ngậy, nhưng tôi không nuốt nổi. Thấy tôi buồn, thằng Khánh bảo: “Ăn đi mày. Không việc gì phải buồn phiền cả. Lúc nhỏ, thịt nó đang thơm tho mày không hôn được, bây giờ báu lắm đấy à? Mày có ưng ngửi mùi nước hoa tí nữa tao mua cho mày một lọ”. Cả bọn cười toé. Tự nhiên tôi thấy ghét thằng Khánh. Nó là thằng thực dụng, chẳng hề có chút tình gì.

Ăn nhậu cong chúng tôi tìm về chỗ sân ga trải ni lông nằm ngủ. Thằng Khánh gác chân lên tôi nằm thủ thỉ:

- Bọn tao sắp về rồi mày ạ.
- Về à? Tôi chột dạ hỏi.
- Ở đây cũng chẳng biết làm gì. Về quê còn có ruộng nương mà cày cấy.

Nghe nó nói, tôi thấy mình hẫng hụt chẳng khác nào một người từ trên không rơi xuống vực thẳm. Chúng nó mà đi thì tôi còn ở lại đây làm gì. Nhưng còn em, liệu em có về với tôi không?

Sáng hôm sau tôi quay lại nhà hàng. Tôi đợi suốt một buổi để được gặp em. Có lẽ thấy tôi đứng mãi ngoài hành lang đến tội nghiệp nên nàng phải ra.




Bây giờ nàng không còn được như xưa nữa. Ngày ấy nước da nàng nõn nà thơm như cánh sen, bây giờ son phấn không che lấp được sự vàng võ của da thịt nàng. Nét mặt nàng u buồn và đôi mắt khắc khoải một niềm đau. Nàng nói trầm buồn: “Cho em xin lỗi chuyện hôm qua”. Nàng vịn tay vào cửa mà khóc. Tôi bảo nàng: “Hãy về với anh đi”.

Nàng lắc đầu:

- Em không thể nào về được nữa rồi.....- Tiếng nàng tắc nghẹn rồi lại oà lên: - Em đã trở thành một con quỷ. Em không muốn anh trở thành một con quỷ nữa. Anh hãy về đi, về một mình ở nhà có con Quyên em gái em đang đợi. Em đã viết thư cho nó rồi.....

Đôi bờ vai nàng run lên lẩy bẩy. Tôi nghe lòng tê buốt như có ngàn kim châm. Tôi khẽ khàng nắm tay nàng kéo vào mình: “Không....về với anh đi. Dẫu thế nào anh vẫn thương em....”

Nàng buột tay tôi chạy ù vào phòng. Bóng đèn màu nhấp nháy, và tiếng nhạc xập xình nổi lên loạn xạ.


*

Chúng tôi lên tàu. Con tàu rúc lên một hồi còi dài rồi khẽ rùng mình chuyển bánh. Thôi tạm biệt nhé Sài Gòn - Mảnh đất phồn hoa, tạm biệt em - Người con gái tôi yêu, có thể mãi mãi không bao giờ gặp lại....



Con tàu vun vút lao đi trong nắng sớm, qua bao nhiêu cánh đồng, bao nhiêu làng mạc. Ở đâu chúng tôi cũng thấy hình bóng những người dân cặm cụi một nắng hai sương trên đồng. Chẳng biết nơi ấy có bài ca điệu Lý như ở quê tôi không?.....



Ba ngày sau chúng tôi về đến ga Rồng. Làng tôi kia vẫn luỹ tre xanh như tấm màn nhung buông xuống chân trời vẫn hồ Mây núi Tá mờ trong sương. Cái nguyên khí ngàn đời không thể nào mất được như các cụ xưa thường nói. Ngước nhìn lên núi, tôi thấy một người con gái đang dắt tay một ông già rẽ sương khói đi lên. Tôi biết đó là Quyên em gái nàng đang thay chị dắt cha lên núi đàn hát. Ngày mai, người con gái ấy có thể cùng tôi xây dựng tổ ấm hạnh phúc, sinh con đẻ cháu trên mảnh đất này. Dẫu đói no, vui buồn, sướng khổ, tôi vẫn có một làng quê để lúc chết được khóc thương. Nhưng còn em....em đã rời luỹ tre xanh, đã đi khỏi đời tôi....


“Chiều ơi chiều....Chiều ơi chiều...”. Lòng tôi như con cuốc kêu thương, quay quắt gọi hồn em. “Chiều ơi chiều....Chiều ơi chiều”. Bài ca ấy lại tiếp tục cất lên với điệu ngân ai oán muôn thuở. Trước mắt tôi mọi cảnh vật như đang chuyển động theo. Sương khói cuộn tròn, luỹ tre xanh nhẹ lướt, những con người trên vạt đất mới vỡ họ cũng cặm cụi bước theo điệu hát “Chiều ơi chiều....Chiều ơi chiều” có lẽ họ đang tỉa hạt. Thôi thì nắng hay mưa cũng chưa biết nữa nhưng dẫu sao cũng có một mùa hạt đã gieo. Tôi quỳ xuống cầu trời: xin hãy thương đến hạt giống của người nông dân.
READ MORE - CAO HẠNH