Nhà thơ Yến Lan
TÌNH VĂN THỜI CHIẾN
Hồi ký của Lâm Bích Thủy
Tôi cứ muốn ngược dòng thời gian để được trở
lại những năm 50 thế kỷ XX. Khi ấy tôi là cô bé sáu, bảy tuổi. Giờ, dù đã gần
70, trải qua chiến tranh chia cắt hơn nửa đời người; bạn bè của cha lần lượt rủ
nhau đi vào lòng đất! Song, rất lạ, tâm trí tôi
luôn nhớ về cái thời trẻ trung của họ. Từng khuôn mặt, giọng nói, cử chỉ
của các chú, lần lượt lướt qua tâm trí tôi:
Thuở
ấy, gia đình tôi bị qui là Tiểu tư sản
thành thị. Trong ngôi nhà tranh, vách đất, nền có chỗ tráng xi măng, có chỗ
là nền đất nhưng lâu ngày đi lại trở nên
láng coóng. Diện tích nhà khoảng 100m² chia làm 3 gian, hai chái. Trong nhà có
ba má, và bốn chị em (hai gái, hai trai) luôn có tiếng cười vui vẻ. Hôm nào
cũng có chuyện quan trọng để người lớn chia sẻ. Bởi chính nơi đây, là điểm hẹn
của văn hóa – các chú nhà thơ - bạn của ba tôi.
Tôi thấy chú nào cũng
đẹp trai, vui tính và tóc họ ánh lên màu xanh của tuổi trẻ. Dăm bữa, nửa tháng
tôi nhìn thấy mái tóc dày, bùm xum, cặp mắt to tròn, ngơ ngác như nai của chú
Nguyễn Thành Long. Nhà chú ở Qui Nhơn nhưng chú thường có mặt ở nhà tôi để bàn
chuyện văn và chuyện đánh Tây với ba. Ông Phạm Xuân
Cang - cho biết, chú Long có tác phẩm “Ta
và chúng nó” hay lắm; được in ngay tại thị trấn của tôi! Ông nói: - “Thị
trấn lúc đó, sống đời nô lệ, thiếu thốn, nhưng đã có Nhà in thì thật là quí!”
- Tôi cũng thường gặp chú Nguyễn
Đình. Nghe
nói “người một mắt hung lắm. Mà chú
Đình lại
có một mắt phía trái, mắt phải của
chú chỉ có lòng trắng thôi; song tính tình chú lại vui vẻ dễ gần nhất. Quê chú
ở tận Hội An - Quảng Nam. Xa thế mà tiếng cười của chú luôn rộn lên ở nhà tôi.
Có lẽ, vì quí cái tình của ba tôi mà chú thương chúng tôi như con .
- Chú Trinh Đường (Trương Đình) người to bè
bè, cao lớn, mạnh mẽ; chú cười nghe có âm khà khà, dòn như bắp rang. Chuyện của chú bao giờ cũng làm cho người
nghe cười đến ngã ngữa, bọn trẻ thì tè ra quần .
- Chú Nguyễn Khoáng (tức Mịch Quang). Có ai
ngờ rằng, sau này chú là dượng chồng của
tôi. Khuôn mặt chú xương xương, đặc trưng của người xứ nẫu; da trắng, mắt sáng,
hao hao giống ba. Với tôi, thì ba đẹp hơn chú chút đỉnh! Đi đâu chú cũng đem
theo máy ảnh. Chính những bức ảnh còn giữ được đến giờ là nhờ tài chớp đúng
khoảnh khắc đời thường thời đó
Ảnh: từ
trái sang: Nguyễn Đình, Yến Lan, Mịch Quang
Chú bé đội nón, mặc đầm là nhà thơ Lâm
Huy Nhuận
Chị
em tôi, đứa nào cũng thích chú Phạm Hổ và chú Khánh Cao. Hai chú hiền, chịu khó
chìu chuộng lũ nhóc con chủ nhà. Chú Khánh còn gọi tôi là “cái nấm của chú” nghe thích lắm cơ! Sở dĩ người ta gọi chú là
“Khánh cao”, bởi, chú cao quá cở so với chiếc võng gai nhà tôi. Nó chẳng vừa
đầu vừa chân của chú. Mỗi khi nằm lên đó, đầu và chân chú bao giờ cũng thòi
ra ngoài. Thế mà lúc nào đến chơi, chú cũng chỉ nằm trên võng nói chuyện. Thi
thoảng chú đứng làm trụ, nắm tay chúng tôi xuay quanh chú, làm
chúng tôi cười thích chí...
- Chú Phạm Hổ nhỏ hơn ba tới 9, 10 tuổi; nhưng
bình đẳng và thân mật với nhau lắm cơ. Má tôi kể:
Một hôm, từ ngoài cửa bước vào, quẳng chiếc
xà-cột xuống phản, chú Hổ lại gần má thì thầm “Chị Bảy, nhà còn gì cho em ăn
với, em đói bụng quá?”. Má tôi cười khì vì vẻ mặt thật thà của chú, và nói:-
“Chỉ còn
it cơm nguội với mắm ruốc thôi, chú ăn chứ?
Mắt
chú sáng rỡ: “Tốt quá rồi chị ạ!”, má tôi xuống bếp, xới bát cơm nguội và dích
cục mắm ruốt đỏ tươi, lên đưa chú. Má bảo: “hôm ấy, nhìn chú Hổ ăn cơm nguội
với mắm ruốt sống trông ngon như vua ăn sơn hào, hải vị vậy”.
-
Chú Vương Linh (tên thật Lê Công Đạo), ít đến nhà, song, tôi nhớ nét mặt, tính
cách chú: Người tầm thước, đậm đà, khuôn mặt hơi chữ điền, da ngăm đen, khỏe
mạnh. Tính chú trầm. Vợ chú có đôi mắt màu xám tro, hình như có mang ¾ dòng
máu Tây (tức F2)
-
Chú Hoàng Châu Ký với khuôn mặt chữ điền, nghiêm nghị. Dường như chú nào mặt
chữ điền cũng đều nghiêm, không thích đùa với trẻ con thì phải! Chú ít cười,
lúc nào cũng như bận việc. Chúng tôi không dành chú cho riêng mình. Suýt nữa
chị em tôi để mất túi xách áo quần của chú gửi ở nhà.
Đó là dịp chú đi công tác đến Bình Định, ở
nhà tôi ba, bốn hôm. Túi xách chú đặt dưới gối, trên đầu phản. Chiếc phản có 4
tấm gỗ mun, lên nước bóng lộn. Ba đặt nó cạnh cửa sổ. Ngôi nhà tranh nhờ bộ ván
này tăng thêm phần sang trọng cho nhà tôi so với nhà hàng xóm.
Đó là của
hồi môn mà ông nội cho ba khi lấy vợ. Ba để bộ ván này đón khách xa hay bạn bè
công cán về Bình Định nghĩ qua đêm.
Một chiều nọ, chú Hoàng
Châu Ký đến nhà; rồi sang hôm sau ba và chú đưa nhau đi đâu đó, cón má thì bế
Nhuận sang “Hội chị chiến sĩ”. Trước
khi đi, má dặn: “mấy đứa (tôi, Tú,
Ánh, đang chơi đồ hàng dưới bóng cây trứng cá) trông nhà, má đi chút xíu về”. Liền sau đó, một anh trai đến bên
tôi nài: “Em ơi, cho anh xin gáo nước
uống.” Tôi quay đầu lại, nhìn anh. Thấy anh có nước
da xanh mét, bụng ỏng, vẻ bệnh hoạn, tôi ngại, nhưng ham chơi, không thể bỏ để
đi lấy nước cho anh, tôi bảo: “anh xuống
bếp mà uống, em mắc chơi.” Một
lát, bỗng nghe tiếng thất thanh của má “Này
cậu kia, đứng lại”. Má tôi đang trên đường về, ngạc nhiên thấy từ trong nhà
mình có người lạ, lù lù bước ra với cái bụng to như đàn bà chửa sắp đẻ. Bà lật đật
đặt thằng Nhuận xuống, lao tới, giữ chặt cánh tay anh trai, lôi từ bụng ra ba
bộ quần áo:
- Ôi trời! đồ của chú Ký đây mà, tụi nhỏ ham
chơi quá, má về kịp chứ không thì biết
nói sao với chú!
Hàng tháng, lúc thì chú này, bác kia tới, nhà
không mấy khi vắng bóng khách thơ. Đôi khi các chú cùng đến một lúc, để bàn
việc trọng đại gì đó và rủ ba đi công cán. Tôi sợ nhất là khi
các chú lôi ba đi vào lúc má đi mua bán xa nhà.
Hễ thấy ba tỏ ra bận rộn, thu xếp mọi việc là
tôi ngay ngáy lo! Này nhé, nách trái ba bế thằng Nhuận, tay phải dắt thằng Ánh
xuống gửi bà ngoại, còn tôi và Tú Thủy thì ba dẫn ra nhà cô Bốn, chỉ vào chúng
tôi dặn anh Can: “cháu giúp cậu, tối tối vào nhà ngủ trông dùm nhà và hai em;
cậu đi công tác vài hôm.” Rồi, người lớn đi hết! chỉ còn hai chị em. Anh Can
ngủ nhà ngoài, chị em tôi ngủ trong buồng, chưa sáng đã lén bỏ chị em tôi để về.
Cứ nghe tiếng cót két là chúng tôi lòm còm bò dậy theo,
đợi anh đi, lôi nhau ra võng ngồi; vừa đung đưa đôi
chân vừà hát “ta là bộ đội, ta là công an
đây”, để dọa cho ma sợ.
Chả
là lũ trẻ hàng xóm thấy ba má tôi vắng nhà đã dọa chúng tôi nhiều thứ. Nên chị em tôi, cả
hai đều nhất cử, nhất động. Đứa này đi tiểu đứa
kia phải đi theo. Sáng thì ra chợ mua bánh xèo vỏ, bánh ú, nem
cuốn ăn. Đứa nào thích gì tự lo, ba đã dặn kỹ rồi.
Nhà tôi đối diện chợ Gò Chàm. Chợ nghèo lắm,
chỉ có túp lều tranh lụp xụp, núp dưới bóng những cây gòn cao to. Năm bữa có
một phiên. Ngày phiên, người nông dân đem đến đây các loại nông sản, gia súc,
gia cầm, vải, bông. Người Gia-Lai, Ê-Đê với làn da đen nhẻm, khét nắng, nồng
nặc mồ hôi vì lâu không tắm. Cứ mỗi lần xuống chợ họ
để lại những sản phẩm của núi rừng: rễ cây thuốc, cao khỉ, măng, củi, than và
mua về buôn làng heo hút nào muối, kim chỉ, hạt cườm, dầu dừa v.v... Đấy, Phố
huyện chỉ vào ngày phiên mới đông vui, nhộn nhịp, các ngày khác, cuộc sống trở
lại đìu hiu vắng vẻ. Ai đã từng sống ở đây mới thấm thía cảnh sống của người
tỉnh lẻ qua bài thơ “Lại về tỉnh nhỏ”
của ba tôi:
Tỉnh nhỏ
Đìu hiu
Mặt trời ngủ giữa chiều,
Trở mình trên mái rạ,
Cây đứng nép bên đường,,
Tay xương nắm lá,
Như tay người đưa thư,
Áo vải tây vàng hai vai đã vá
Đi giữa đường mấp mô
Không có kẻ đợi chờ
Đôi chiếc xe dụm đầu ngái ngủ
Tỉnh nhỏ…
Cô em
Nằm xem
“kiếm hiệp” …
Bạn của ba nhiều lắm, tôi thấy gặp ai ông
cũng vui vẻ, thân thiện. Ông thuộc cử chỉ, tính cách, giọng nói từng người;
giữa đêm khuya, tiếng gọi cửa khe khẽ “Yến
Lan ơi, mở cửa cho mình với!”
ông nhận ra “Tế Hanh đó à”, hay tiếng
cười đều đều cùng thanh trầm của chú Nguyễn Thành Long, hoặc giọng trữ tình của
chú Phạm Hổ. Tấm thịnh tình của ba đối với bạn lan tỏa sang cả chúng tôi. Chúng
tôi mãi nhớ những dấu ấn về họ! Tôi cảm nhận được tình bạn trong sáng, chân
thật, không so đo, sáo rỗng ở họ. Đó là cơ sở, là nguồn tư liệu quí để tôi viết
nên chân dung người thi sĩ Yến Lan-cha tôi vào hồi ký này.
Lâm Bích Thủy
No comments:
Post a Comment