Nhà thơ Yến Lan năm 1992
KỶ NIỆM GIỮA HAI NHÀ THƠ YẾN
LAN VÀ HÀN MẶC TỬ
Cuộc gặp gỡ giữa ba tôi
và Hàn Mặc Tử được ông kể lại :
- Một sáng chủ nhật,
khoảng giữa năm 1930, tôi đang chép lại bài thơ mới làm hôm qua, thì nghe tiếng
gọi ngoài cổng chính.
Tôi nghĩ: chắc là
có khách lạ muốn đến thăm đền (vì người quen tất phải biết ngõ phụ luôn mở rộng
ở phía Bắc của góc tường thành) Tôi bước ra, nghe tiếng của hai trang nam tử.
Biết là người xa đến vãn cảnh, tôi chào, rồi chỉ hướng cho họ vào đền. Khách mặc
âu phục sang trọng: Một, hơi lớn tuổi, nói giọng Bắc, rất chỉnh tề trong bộ
Tropical, một là thanh niên mặc nguyên bộ tơ De-ligaon, đội mũ Panama. Đang đi,
người trẻ tuổi bỗng ngoặc sang phải, lối hàng rào chè, rẽ sang một góc sân. Ở
đó có cây lựu lớn đang nở hoa đỏ rực. Anh níu bẻ một nụ rồi tặng cho người bạn
đồng hành, miệng đọc câu Kiều:
Ngoài
hiên quyên đã gọi hè
Đầu
tường lửa lựu lập lè đơm bông
Rõ ràng là những vị
khách thuộc loại hào hoa, ít gặp ở đây. Vừa lúc ấy cha tôi bước ra, hướng dẫn
họ đến bên tấm bia đá và mở cửa mời vào chính điện. Tôi trở lại tràng kỷ, làm
tiếp công việc bỏ dở. Được một chốc hai người đi xuống. Cha tôi đưa
họ vào nghĩa tự, mời ngồi trên tràng kỷ và đưa mắt bảo tôi xuống nhà lấy bộ
bình trà bằng sứ chuyên dùng tiếp khách quí. Có lẽ tờ giấy mà tôi còn bỏ ngỏ
trên bàn có những dòng chữ và cách trình bày giống dạng một bài thơ đã làm cho
người trẻ tuổi chú ý. Anh hỏi tôi:
- Cậu đang chép thơ à?
Tôi bẽn lẽn gật đầu:
- Dạ, vâng.
- Thơ của bác hay thơ
của cậu đấy?
- Dạ thơ của tôi. Im
lặng một chốc, anh lại hỏi:
- Cậu làm thơ lâu chưa?
Đã đăng ở đâu chưa?
- Tôi mới võ vẽ, cũng có
bài được đăng báo.
- Cậu lấy bút danh là
gì?
- Tôi ký Xuân Khai.
Người trẻ tuổi vui hẳn lên, anh cười:- Vậy tôi với cậu là đồng nghiệp với nhau.
Xin tự giới thiệu, tôi là Phong Trần, là Hàn Mặc Tử. Anh quay sang người trung
niên, vẻ quí trọng:
- Vị này là nhà văn, tác
giả “Kép Tư Bền”, tập truyện ngắn vừa mới xuất bản đang được cả nước hoan
nghênh. Tôi thốt lên một tiếng “À” vui vẻ:
- Hóa ra ông là nhà văn
Nguyễn Công Hoan. Tôi đã đọc và đã biết nhiều về ông, nhất là trong cuộc bút
chiến với báo Phong Hóa, Ngày Nay về tập chuyện dài “Lá ngọc cành vàng “của ông
Lúc ấy nhà
văn Nguyễn Công Hoan như tự nhiên có thêm những cảm xúc không ngờ. Ông nhìn tôi
một cách triều mến.
Hàn Mặc Tử
thì gật đầu thích thú, anh tiếp lời:- Nhân đây ông làm một cuộc viễn du từ Bắc
vào Nam để tạ lòng ủng hộ của tác giả mà mình hâm mộ. Hôm nay tôi đưa ông lên
thăm một vài cảnh đẹp ở đây, rồi sẽ lên Phú Phong, mảnh đất lịch sử của quê ta.
Nhân dịp này ta làm quen với nhau vậy. Tôi đang sống với gia đình tại 20 đường
Khải Định-Qui Nhơn. Có đi Qui Nhơn mời cậu ghé chơi, chúng ta là đồng nghiệp
với nhau mà.
Chúng tôi gắn bó
với nhau từ buổi ấy. Tôi kể chuyện này với Chế. Chế cho biết đã quen với Tử rồi
và cũng muốn có dịp nào đó sẽ giới thiệu tôi với anh.
Sống giữa
lòng Bình Định, những chiều hiu hiu nắng quái, tôi và Chế Lan Viên thường lên
lầu cửa Đông mà hai đứa tôi gọi là lầu tư tưởng, phóng tầm mắt nhìn bao quát
thị trấn, rồi vọng đến những chân trời xa tắp, lòng ngậm ngùi cho mảnh đất quê
hương đã trải qua lắm cuộc đổi thay. Có lúc chúng tôi nghĩ xa hơn đến các triều
đại của quá khứ, từng nối tiếp nhau đến sự thăng trầm biến thiên của lịch sử,
rồi bàn nhau cùng viết về cảnh điêu tàn, những cuộc đời dâu bể. Hoan đi sâu vào
sự đau thương, tàn tạ, thịnh vượng, làm sống lại những lễ hội, sinh ca của các
hệ tộc quyền quí, rồi binh biến máu lửa thay cho một thuở thanh bình. Tập thơ
của Chế, tên “Điêu tàn”.
Thành
Đồ Bàn cũng thôi không nức nở
Trong
sương mờ huyền ảo lắng tai nghe
Từ một làng xa xôi bao
tiếng mõ
Tan
dần trong im lặng của đồng quê...
Tập
thơ của tôi là “Giếng loạn”. Nghe tôi đôi lần đề cập đến “Giếng loạn” Tử rất
muốn xem (lúc này anh đang bệnh). Tôi mang xuống cho anh. Khoảng một tuần sau,
Tử đưa trả bản thảo và nói:- Tôi đã xem hết tập thơ rồi. Có một số xúc cảm nên
cố làm một bài riêng tặng cậu. Anh lấy ở túi áo ra trao cho tôi và trân trọng
nói: - Đây cứ coi như một bài bạt sơ khảo; mà tôi thấy cái nhan đề không ổn.
Sao cậu không viết là “Giếng lạng” lại viết là “Giếng loạn”? Tôi
đáp: “Có vấn đề về ngôn ngữ tôi muốn thảo luận với anh đấy.”
Rồi tôi và
Tử bàn nhau hồi lâu, sau cùng thống nhất là “Giếng loạn”. Loạn ở đây là
loạn lạc, đầy đủ ý nghĩa hơn, lạng là bỏ hoang. Bài thơ Tử tặng tôi chính là
bài “Trăng tự tử” mang dáng dấp của một bài bạt cho cả tập thơ. Tôi đã có chủ ý
sẽ in nó vào tập “Giếng loạn” khi xuất bản. Nhưng bản chép tay ấy
với cả tập thơ bị thất lạc, lúc đi sơ tán, ngày Pháp mở chiến dịch Át-lăng đánh
vào Qui Nhơn. Bản in trên các sách hiện nay là bản lưu từ trong xấp di cảo do
anh Quách Tấn giữ.
Buổi sáng
hôm ấy, tôi nhớ dường như sáng 28 Tết âm lịch, năm 1938. Tôi và Chế Lan Viên
đến thăm anh. Khi ấy bệnh Tử đã nặng! Mới bước vào cổng nhà, tự dưng tôi có cảm
giác căn nhà hiu quạnh quá. Thấy chúng tôi, mẹ Tử bước ra thềm hè, rơm rớm nước
mắt:
-Trí
đi rồi các anh à! Cò bót không cho nó ở nhà nữa, vì sợ lây bệnh, bắt phải đưa
vào Qui Hòa, Tết nhất đến nơi rồi, nếu đưa nó vào trong ấy thì tội lắm. Nhà cập
rập quá, nên lén gửi tạm nó vào trong xóm Động. Các anh có đi thăm thì em Hành
đưa đi. Nó vừa chạy đâu đó.
Đợi lâu không gặp
Hành, hai đứa tôi hỏi thăm vào xóm Động. Đấy là cái xóm nhỏ của những người lao
động nghèo, nằm trên một bãi cát rộng mênh mông, khoảng khu VI Qui Nhơn bây
giờ. Nhà ở chỉ là những túp lều dựng tạm bợ trên cát, không có nền. Đồ đạc,
giường, tủ, bàn, ghế cứ đặt nguyên trên cát. Đường đi vào cũng quanh quất cơ hồ
khó tìm ra.
Chúng
tôi vào một cái chòi lợp tranh nhỏ hơn một cái chái bếp. Nóc chòi được chống
lên bằng hai cây cột tre. Một tấm phên ngắn dọc theo chiều dài của nóc, ngăn
chòi làm hai: nửa trước sinh hoạt bình thường, nửa sau hình như có đặt một
chiếc chõng tre với lỉnh kỉnh những thúng mủng..
Trước tấm
phên là cái bàn ọp ẹp, chỉ còn lại một chân trước nối với một khúc củi đẻo từ
chảng ba, hai chân sau cột vào hai cọc tre chống mái nhà, Tử đang ở trong ấy
(đây là nhà của một phu kéo xe). Nghe tiếng chúng tôi, Tử chậm rãi bước ra, vẻ
mệt nhọc:
- Hai
cậu vào tới đây sao…?
Hoan và tôi ngồi trên
ngạch cửa làm bằng một khúc tre, xoay lưng ra ngoài, trò chuyện với anh. Tử
gầy, trông hốc hác lắm Anh không vui như mọi khi.
Đang nói
chuyện thì có bà cụ đem cho anh hai quả keo chín, Tử nhìn hai đứa tôi:- Thứ này
mình thích lắm. Mấy năm còn khỏe, mình thường xách ná cao su đi bắn. Có khi đạn
rớt vào nhà Tây, mình ba chân bốn cẳng chạy nhanh như sóc. Thế mà bây giờ
.!.Anh thở dài.
Chúng tôi
nói chuyện cho tới giờ tan tầm, thì có một bé trai xách làn cơm vào (chắc là em
Hành) Khi cái xách cơm đặt nghiêng nghiêng trên bàn, em lẫn ra phía sau. Tử vẫn
giữ cái vẻ thản nhiên, gợi thêm một vài ý nhỏ về thi ca sách vở. Sợ anh mệt và
cũng quá giờ chúng tôi đứng lên tạm biệt. Tử nhìn, đôi mắt anh buồn vời vợi
Sau này, mới biết
sau cái Tết ấy, gia đình còn cố giấu anh ở mấy nơi nữa rồi mới vào Qui Hòa.
Khi Tử mất,
mỗi lần nhớ tới anh, tôi lại ngậm ngùi đọc “Những giọt lệ” của anh
Trời hỡi! Bao giờ tôi
chết đi
Bao giờ tôi hết được yêu
vì
Bao giờ mặt nhật tan
thành máu
Và khối lòng tôi cứng
tựa si?
Họ đã xa rồi khôn níu
lại
Lòng thương chưa đã, mến
chưa bưa
Người đi, một nửa hồn
tôi mất
Một nửa hồn tôi bỗng dại
khờ
Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?
Ai đem tôi bỏ xuống trời
sâu
Sao bông phượng nở trong
màu huyết
Nhỏ xuông lòng tôi những
giọt châu!
Tôi không biết anh viết
bài thơ này để nói đến một tình huống nào. Có người bảo là anh viết để than thở
về một mối tình trong bao nhiêu mối tình dang dở của mình. Nhưng tôi cứ nghĩ
cảm xúc đó bắt nguồn từ buổi sáng hôm ấy, buổi sáng mà tôi và Hoan còn ngồi bên
Tử, trong túp lều đơn sơ ở xóm Động…
Quả thật tôi
không ngờ, lần chia tay ấy là lần vĩnh biệt.
Lâm Bích Thủy ghi theo trí nhớ lời kể của nhà thơ Yến Lan