(Lời giới thiệu của người sưu tầm:
Từ xưa đến giờ, qua bao thời bình và thời chiến, qua bao thăng trầm thế
sự, đạo vị của Thiền thường có mặt trong văn chương (nói rộng là trong văn hoá).
Theo nhà nghiên cứu Đỗ Trân Duy (một giáo hữu Kitô giáo), đến thế kỉ XVIII Thiền
có mặt hầu như khắp thế giới, đa thù đa dạng, nhưng đều có điểm chung là hướng
thiện hướng thượng tâm linh… Nhiều người viết có dùng chất thiền; lắm lần người
đọc gặp phải chất thiền…
Tôi có duyên quen biết Thiền từ nhiều năm nay, có sưu tầm và tâm đắc một
số thiền ngôn (tạm dùng từ này). Xin được giới thiệu đến quý độc giả 10 chùm
thiền ngôn dùng cho sự đánh thức khát vọng
giác ngộ, dùng cho sự ấn chứng chứng ngộ (khởi từ sơ ngộ) - nói theo cảm nhận
chủ quan của tôi… (Tôi có gạch chân những chỗ mà mình có cảm hứng lớn, mong được
thông cảm).
Và cũng xin được bắt đầu với một bài văn vần của tôi).
*****
Tìm lại
chính mình
(Bài văn vần & thiền ngôn)
(“Khuôn mặt thật muôn đời”
của sự
sống chúng ta là gì? Làm sao
để ngộ?)
Đừng khẳng định “tôi”
Là thân xác này
(Xác thân tan rã
Luân hồi còn đây)
Đừng khẳng định “tôi”:
Cảm giác, nghĩ suy…
(Huyễn tướng duyên hợp
Càng chấp càng si)
Sống tức “tôi là …”
Vậy Chân Ngã đâu?
“Giác tâm vô trụ
Tịch Chiếu nhiệm mầu…”
Lời xưa thánh triết
Minh sư trao truyền
Thành tâm tự ngộ
Xa dần đảo điên. (*)
(*)“Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí của vũ trụ,
là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền;
mang năng lượng tích cực có lợi cho toàn vũ trụ,
cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung của tất cả.
(Đường Về Minh Triết; Văn Nghệ, 2007)
Tuệ Thiền (Lê Bá Bôn)
************************************
Kính dâng quý độc giả 10 chùm thiền ngôn
sưu tầm (ở sách)
Chùm 1:
* Chỗ không
có niệm tưởng dấy khởi, rỗng thênh và vô sở trụ, đó là Định. Khi không niệm
tưởng, rỗng thênh và vô sở trụ được nhận biết thì đó là Tuệ. Ở đâu việc
(vi diệu) này xuất hiện thì ta bảo rằng Định này tự thể hiện và chính là Thể
của Bát-nhã, không khác với Tuệ mà chính là Tuệ; lại nữa Tuệ này, tự thể hiện
và chính là dụng của Định, không khác với Định mà chính là Định. (…) Ta nói về Định, nhưng đối với Thể của nó
thì không có gì phải sở đắc. Khi thấy được cái Thể bất khả đắc này, luôn
luôn tịch lặng tròn đầy bất biến, nhưng vẫn diệu dụng bất tư nghì, thì đó là
Tuệ. Chỗ này Định Tuệ đồng đẳng. (Thiền
sư Thần Hội) - (Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn
Kinh); D.T.Suzuki; Thuần Bạch biên dịch).
* Ánh sáng chiếu soi đó là
Tuệ, chẳng phải động và bất biến là Định. Bồ-tát dùng pháp Định Tuệ đồng thể đó
được Vô thượng giác. Cho nên nói “Định Tuệ đồng thể tức là giải thoát”. Nói tự
tại khỏi nhiễm ô có nghĩa là không còn phàm tình chứ không phải hết thánh tình.
(Thiền sư Huệ Hải) - (Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn Kinh); D.T.Suzuki;
Thuần Bạch biên dịch).
* Ngộ là một hình thái của tri
giác, một thứ tri giác nội tại, phát hiện trong phần sâu thẳm nhất của ý
thức. Đó là ý nghĩa của đặc tính tự tri; tức là sự thực tối hậu. Cho nên
người ta thường bảo rằng Thiền giống như uống nước, nóng hay lạnh tự người uống
biết lấy. (Thiền sư Daisetz Teitaro
Suzuki) - (Thiền Luận - quyển trung,
luận I; D.T.Suzuki; dịch giả: Tuệ Sỹ).
* Đừng nghĩ đến thiện, đừng
nghĩ đến ác, mà ngay bây giờ hãy nhìn xem bản lai diện mục của ngươi,
trước khi nhà ngươi sinh ra là gì? (Lục
tổ Huệ Năng) - (Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn
Kinh); D.T.Suzuki; Thuần Bạch biên dịch).
* Tự tri là thấy mình, nhìn thấy tâm trí mình từ
giây phút này đến giây phút khác trong lăng kính của tương giao tương hệ
của mình đối với tài sản, đối với những sự việc, đối với con người, đối với
những ý tưởng… (…) Đây là việc chính yếu: khi mà tôi chưa hiểu được mình, tôi
không thể có được căn bản để suy tư, và tất cả sự tìm kiếm của tôi chỉ là vô
vọng hão huyền. (…) Chính sự kiện ý thức trực tiếp về hiện thể (cái đang là)
là chân lí rồi. (…) Đừng phân tích tâm thức để tâm trí tĩnh lặng. (Thiền sư Jiddu Krishnamurti) – (Tự Do Đầu
Tiên Và Cuối Cùng; J.Krishnamurti; dịch giả: Phạm Công Thiện).
Chùm 2:
* Từ trước cho đến thời Lục Tổ, khái
niệm về Phật tánh hiện hữu nơi tất cả chúng sinh, tự thể hoàn toàn thanh tịnh và
bất nhiễm, rất thịnh hành. Bổn phận sự của người tu là làm hiển lộ Tự tánh,
tức Phật tánh nơi mình, vốn xưa nay thanh tịnh. (Thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki) - (Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn Kinh); D.T.Suzuki; dịch giả:Thuần Bạch).
* “Nguyên” (“nguồn”) là chơn tánh
bản giác của tất cả chúng sinh, cũng gọi là Phật tánh, cũng gọi là tâm địa. Ngộ
đó gọi là huệ, tu đó gọi là định; định huệ chung gọi là thiền-na. Tánh này là cội
nguồn của thiền cho nên gọi là thiền nguyên (nguồn thiền), cũng gọi là “lí hạnh
thiền-na”.
(…) Chơn tánh này không riêng nguồn của thiền môn, cũng là nguồn của muôn
pháp, cho nên gọi là pháp tánh; cũng là nguồn mê ngộ của chúng sinh, cho
nên gọi là Như Lai tàng, tàng thức; cũng là nguồn muôn đức của chư Phật, nên gọi
là Phật tánh; cũng là nguồn muôn hạnh của Bồ-tát, nên gọi là tâm địa. (Thiền sư Tông Mật) – (Nguồn Thiền; Tông Mật;
dịch giả: Thích Thanh Từ).
* Lục Tổ đã giảng rõ cho chúng ta
hiểu về Tánh theo cái nhìn của ngài. Tánh là sinh lực ngự trị toàn thể sinh mệnh
chúng ta, là nguyên lí của sự sống vật chất lẫn tinh thần. Không chỉ có thân mà
cả tâm, trong ý nghĩa cao tột nhất, đang sống vì sự có mặt của Tánh. (…).
Tự tánh nói một cách khác là tự tri, không phải chỉ là hiện hữu suông mà
còn biết. Chúng ta có thể nói như thế vì tự tri tức đang là, tri tức hữu và
hữu tức tri. Đây là ý nghĩa câu nói của Lục Tổ: “Nơi bản tánh riêng có trí
Bát-nhã và vì thế có tự tri (tự dụng trí huệ). Bản tánh thường quán chiếu và không
dùng ngôn ngữ để diễn tả được”. (Thiền sư
Daisetz Teitaro Suzuki) - (Vô Niệm (Pháp
Bảo Đàn Kinh); D.T.Suzuki; dịch giả:Thuần
Bạch).
* Chỉ có một câu mà thiền gia nên
ra sức công phu và tìm thấy giải đáp chung quyết là: “Bản lai diện mục của ta là
gì?”(Thiền sư Đại Ứng). “Khi các ngài được dạy cho đặt nghi tình vào cái nghĩa của niệm Phật, hãy cứ tự nhiên
mà chú tâm ngay trên chỗ “ai” niệm Phật”. (Thiền sư Bản Thiện) - (Thiền Luận - quyển trung, luận I; D.T.Suzuki;
dịch giả: Tuệ Sỹ).
* Những điều kiện tất yếu cho việc làm trỗi dậy ước vọng giác
ngộ có thể được tóm tắt như vầy: 1. hành vi đạo đức, 2. thân cận chư Phật và
các thiện tri thức, và 3. tâm thanh tịnh, chân thật và từ bi. Khi làm tròn
ba điều kiện này, Bồ-đề tâm (Bodhicitta) được coi là đã ngóc đầu dậy và sẵn sàng
để tăng tiến.
(…) (Theo kinh Hoa Nghiêm) “Bồ-đề tâm như đại dương vì chứa tất cả các hạt
ngọc công đức. Bồ-đề tâm như núi Tu-di (Sumeru) bình đẳng đứng cao trên tất cả
mọi vật. Bồ-đề tâm như núi Thiết-vi (Cakravada) vì bảo trì hết thảy thế gian.
Bồ-đề tâm như núi Tuyết (Himàlaya) vì sản xuất tất cả các cây thuốc trí tuệ. Bồ-đề
tâm như núi Hương (Gandhamàdana) vì xuất sinh tất cả các thứ hương công đức. Bồ-đề
tâm như hư không vì trải rộng vô biên phước đức”. (Thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki) - (Thiền Luận - quyển hạ, luận IV; D.T.Suzuki; dịch giả: Tuệ Sỹ).
Chùm 3:
* Nếu giác ngộ đã làm cho toàn
thể vũ trụ rung chuyển sáu cách khác nhau như kinh chép, thì vô minh khi chưa
bị hàng phục ắt vẫn có đủ thần lực ấy, dầu rằng vì bản chất và hiệu lực,
thần lực ấy diễn ngược lại hẳn với giác ngộ. (Thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki) - (Thiền Luận - quyển thượng, luận III; D.T.Suzuki; dịch giả: Trúc Thiên).
(Nếu nghi ngờ điều này và cần biết quan điểm của một số nhà khoa học đương đại,
có thể đọc phần viết thêm về Thiền ở: Đường Về Minh Triết – Thuvientutam.vn).
* Nếu ngài thấy rằng ý thức
của mình được chia sẻ bởi tất cả con người khác sống trên trái đất này, lúc
đó toàn bộ cách sống của ngài sẽ đổi khác. (…) Muốn chuyển hoá thế giới, chuyển
hoá sự khốn khổ, chiến tranh, nạn thất nghiệp, nạn đói, sự phân chia giai cấp
và tất cả sự hỗn loạn khắp nơi thì chúng ta phải chuyển hoá chính bản thân
mình. (Thiền sư Jiddu Krishnamurti) – (Tự
Do Đầu Tiên Và Cuối Cùng; J.Krishnamurti; dịch giả: Phạm Công Thiện).
* Nhìn vào bên trong, chúng ta biết có cái tâm chân thật ở
trong. Tâm này thấy sự rong ruổi của ý thức, thấy được vọng niệm khi dấy khi lặng. Nếu không có tâm ấy,
chúng ta làm sao biết được khi có vọng khi không vọng, lúc có ý thức lúc không
ý thức. Cái biết được vọng, quyết định cái đó không phải vọng. Vọng thì khi
sinh khi diệt, cái thấy rõ sự sinh diệt của vọng quả là không phải sinh diệt.
Vọng dấy lên do vin theo bóng dáng trần cảnh nên có tướng mạo, thuộc về nhân
duyên. Cái biết vọng, chưa từng dấy lên, chưa từng theo trần cảnh,
nên không liên hệ đến nhân duyên. (…) Nhận ra cái đó là thấy tâm chân thật ở
trong. (Thiền sư Thích Thanh Từ) – (Thiền
Tông VN Cuối Thế Kỉ 20; Thích Thanh Từ).
* Nếu được bạn lành vạch bày liền đốn ngộ cái “biết” không
- lặng. Cái “biết” không có niệm, không hình tướng thì đâu có gì là ngã
tướng nhân tướng. (Thiền sư Tông Mật) ) –
(Nguồn Thiền; Tông Mật; dịch giả: Thích Thanh Từ).
* Mục tiêu của việc tu thiền là nhận ra tự tánh (tức Phật
tánh) và giải thoát khỏi mê lầm phiền não. Làm thế nào để nhận ra được? Có thể
được, vì tự tánh là tự tri. (…) Bảo rằng quá trình giác ngộ là đốn nghĩa
là có một cú nhảy vọt (…). Cú nhảy vọt về mặt luận lí là tiến trình lí luận
thông thường khựng lại một cách đột ngột (…). Tiến trình này gián đoạn đột
ngột, và đồng thời bất khả tư nghì; đó là kiến tánh. (…) Vì là vô tâm vô niệm
nên cái thấy mới thực là thấy. (…) Lí vô ngã không đúc kết từ suy luận duy lí
mà là một sự kiện thực tế. (…) Các lí luận gia cần nhớ rằng tôn giáo là sự kiện
thực nghiệm (…). (Thiền sư Daisetz
Teitaro Suzuki) - (Vô Niệm (Pháp Bảo
Đàn Kinh); D.T.Suzuki; dịch giả: Thuần
Bạch).
Chùm 4:
* Ngài Pháp Hải bạch rằng: “Hoà Thượng để lại giáo pháp gì
khiến cho những người mê đời sau được thấy Phật tánh?” Tổ bảo: “Các ông lắng
nghe, những người mê đời sau nếu biết chúng sinh tức là Phật tánh, nếu chẳng
biết chúng sinh muôn kiếp tìm Phật cũng khó gặp. Nay tôi dạy các ông: biết
tự tâm chúng sinh, thấy tự tâm Phật tánh. Muốn cầu thấy Phật, chỉ biết
chúng sinh; chỉ vì chúng sinh mê Phật, chẳng phải Phật mê chúng sinh. Tự
tánh nếu ngộ chúng sinh là Phật, tự tánh nếu mê Phật là chúng sinh; tự tánh
bình đẳng chúng sinh là Phật, tự tánh tà hiểm Phật là chúng sinh. (…)”. (Pháp Bảo Đàn Kinh; dịch giả: Thích Thanh Từ).
* Toàn bộ giáo lí Phật giáo, hay cả toàn thể đạo học Đông
phương, nói về tri kiến tuyệt đối, tri kiến chỉ đạt được trong thế giới vô
niệm, trong đó sự thống nhất toàn thể mọi nhị nguyên đối lập là sự chứng
thực sinh động. (Giáo sư vật lí Fritjof
Capra) – (Đạo Của Vật Lí; F. Capra; dịch giả: Nguyễn Tường Bách).
* Bản ngã - một ảo tưởng - là kết quả của bộ não bị quy
định, bị chương trình hoá. (Giáo sư
tiến sĩ vật lí David Bohm).
* (Thầy Đa-ram nói) Năng lượng
linh hồn là năng lượng ở ngoài electron và ngoài proton. Nhưng tâm năng mạnh mẽ
vô cùng, nó có khả năng tác động lên lực hấp dẫn. Năng lượng của nhiều tâm có
một sức mạnh lớn lao. Có tâm năng tích cực và tâm năng tiêu cực, chúng gắn liền
với nhau.(…) Tâm năng tiêu cực (xấu ác) có thể thu hút các đối tượng phá phách
của vũ trụ, tác động lên thiên nhiên. Bởi vậy, cùng với xung đột và chiến
tranh, khá thường xuyên xảy ra động đất, rơi thiên thạch… (Nhà bác học-giáo sư tiến sĩ y học E-rơ-nơ Mun-đa-sep) – (Chúng Ta Thoát
Thai Từ Đâu; E. Mun-đa-sep ; dịch giả: Hoàng
Giang).
* Gọi là Thượng Đế hay chân lí
đều như nhau; chân lí là giải thoát tâm trí khỏi mọi gánh nặng của trí nhớ
(tâm lí). (Thiền sư J. Krishnamurti).
* Nhược ngộ tịch vi lạc / Thử sinh nhàn hữu dư. (Nếu
ngộ tịch là lạc / Đời này nhàn có dư). (Thiền
thi sĩ Vương Duy).
Chùm 5:
* Này thiện tri thức, nếu trong các ông hàng hữu học, mỗi
lần niệm khởi trong tâm, hãy hồi quang phản chiếu (tận nguồn tâm). Khi niệm
diệt trong tâm, sự phản quán tâm cũng tự diệt, đó là vô niệm. Vô
niệm hoàn toàn thoát ngoài các duyên ngoại cảnh, bởi vì nếu còn có cảnh duyên
nào thì không thể là vô niệm được. (…) Nếu khởi chánh chân Bát-nhã quán chiếu
thì trong khoảng một sát-na vọng niệm đều diệt. Nếu biết tự tánh, một phen ngộ
tức đến quả vị Phật. (…). Nếu để cho tâm chẳng nghĩ gì hết, đó là diệt niệm,
tức bị pháp trói buộc, gọi là thấy một bên. (Lục
tổ Huệ Năng) - (Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn
Kinh); D.T.Suzuki; dịch giả: Thuần Bạch).
* Dĩ nhiên chúng ta phải sử dụng các ngôn từ khi một điều
gì đó được truyền đạt từ người này sang người khác, nhưng các ngôn từ chỉ là sự
nêu trỏ suông chứ không phải là chính sự thực. Như kinh bảo, chúng ta phải dùng
đến ngọn đèn ngôn từ để đi vào trong cái chân lí nội tại của kinh nghiệm
vượt khỏi ngôn từ và tư tưởng. Nhưng quả thực là hoàn toàn khờ dại khi tưởng ra
rằng ngọn đèn ấy là mọi sự. (Thiền
sư D.T.Suzuki) – (Nghiên Cứu Kinh Lăng Già; D.T.Suzuki; dịch giả: Thích Chơn
Thiện, Trần Tuấn Mẫn). (Tác phẩm này
được thầy Trần Tuấn Mẫn (dịch giả) sửa bản in. Đây là một việc làm vô cùng quan
trọng đối với những kinh sách có giá trị cho sự tu học và ấn chứng. Ngày nay có
nhiều tác phẩm Phật học bị sai lệch nội dung nghiêm trọng sau khi in ấn! Mong
sao điều này được quý vị tác giả và dịch giả quan tâm. –TT LBB).
* Theo Lục Tổ, Bát-nhã là tên đặt cho Tự tánh hoặc Vô
niệm, khi Tự tánh tự nhận biết mình, hoặc đúng hơn là hành vi tự nhận
biết chính mình. (Thiền sư Daisetz
Teitaro Suzuki) - (Vô Niệm (Pháp Bảo
Đàn Kinh); D.T.Suzuki; dịch giả: Thuần
Bạch).
* Thoại (lời nói) từ tâm khởi, tâm là đầu (ở trước) của
thoại. Niệm từ tâm khởi, tâm là đầu của niệm. Vạn duyên đều từ tâm khởi, tâm là
đầu của vạn duyên. Sự thật, “thoại đầu” tức là “niệm đầu”; trước niệm chính
là tâm. Nói thẳng, trước khi một niệm chưa sinh là thoại đầu. Do đây, chúng
ta biết khán thoại đầu tức là quán tâm. Khán “trước khi cha mẹ chưa sinh, mặt
thật xưa nay là gì?” là quán tâm. (Thiền
sư Hư Vân) – (Thiền Đốn Ngộ; dịch giả: Thích Thanh Từ).
* Người trí xem năm uẩn là
những cấu trúc của tưởng. (…) Ba cõi không gì khác hơn là sự phân biệt. (…)
Khi một sự chuyển hoá (chuyển y) xảy ra thì có một trạng thái vô
tưởng vốn là cảnh giới của người trí. (…) Khi người ta nhận biết rằng không
có gì ngoài những thứ được thấy từ chính cái Tâm thì sự phân biệt về hữu và phi
hữu đứt đoạn. (Kinh Lăng Già; bản tiếng
Anh của D.T.Suzuki; dịch giả: Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn Mẫn).
* Tà đến phiền não sinh /
Chánh đến phiền não dứt;
Tà chánh đều không dùng / Thanh tịnh mới hoàn toàn.
(Pháp Bảo Đàn Kinh; dịch giả: Thích
Thanh Từ).
Chùm 6:
* Mười phương thế giới thu vào
một điểm hiện tiền; quá khứ, hiện tại, vị lai tụ trong một niệm đương thời. Dù
ở giữa hàng chư thiên cũng không có niềm vui nào so được với đây; ở loài người
lại càng hiếm lắm. Sự tiến bộ như thế trong đời sống tâm linh có thể thâu
đạt được chỉ trong vài bữa, nếu hành giả dốc lòng tu tập. (Thiền sư Bạch Ẩn) - (Thiền Luận - quyển
trung; D.T.Suzuki; dịch giả: Tuệ Sỹ).
* Người học kinh, xem giáo lí, mỗi câu mỗi câu đều phải
uyển chuyển xoay về nơi mình để
làm sáng tỏ tánh giác. (Thiền sư Bá
Trượng) - (Trung Hoa Chư Thiền Đức Hành Trạng; dịch giả: Thích Thanh Từ).
* Tối kị nhằm trong ngôn cú tạo kế sống. Vì sao? Vì bánh in
đâu có nước. Người ta phần nhiều rơi vào ý thức. Cần phải nhắm về trước khi
ngữ cú chưa sinh để hội lấy, mới được đại dụng hiện tiền tự nhiên thấy
được. (Bích Nham Lục; dịch giả: Thích
Thanh Từ).
* Không (trong Bát-nhã) là thành quả của trực giác tâm
linh, chứ không phải là hậu quả của suy luận. (Thiền sư D.T.Suzuki) – (Thiền & Bát-Nhã; D.T.Suzuki; dịch giả: Tuệ
Sỹ).
* Khi đức Phật dạy về Khổ thánh đế, Ngài nói đến năm uẩn;
Ngài muốn cho chúng ta biết và thấy năm uẩn. Thế giới loài người của chúng ta là
sự hiện hữu của năm uẩn, và trừ phi chúng ta biết và thấy được năm uẩn này,
bằng không chúng ta không thể hiểu rõ lời dạy của đức Phật. (…) Khi hành giả
phát triển được định tâm mạnh mẽ, hành giả sẽ thấy rằng đối tượng được phản chiếu
trong ý môn như trong một tấm gương. (Thiền
sư Pa-auk Sayadaw) – (Biết Và Thấy; P. Sayadaw; dịch giả: Pháp Thông).
* Được gia trợ bởi năng lực của chư Phật, chư Bồ-tát
Ma-ha-tát đang ở cấp độ thứ nhất của mình (sơ địa) sẽ đạt đến Bồ-tát
Tam-ma-địa gọi là Ánh sáng đại thừa (phát quang địa), thuộc về chư Bồ-tát
Ma-ha-tát. (Kinh Lăng Già; bản tiếng Anh
của D.T.Suzuki; dịch giả: Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn Mẫn).
Chùm 7:
* Tất cả nhân loại không quý gì bằng
sinh mệnh, sinh mệnh được coi trọng nhất trên trần gian này. Bởi vì tất cả của
cải sự nghiệp, danh vọng tài sắc… đều để tô điểm cho sinh mệnh. Mất sinh mệnh,
tất cả cái ấy trở thành vô nghĩa. Song sinh mệnh con người thời nay, nếu kéo dài
lắm chỉ trong vòng bảy tám mươi năm. Cái đau khổ nhất của con người là khi nghe
mình sắp mất sinh mệnh. (…) Thực là mối đau khổ truyền kiếp không ai thoát được.
Nếu có một phương pháp nào khiến con người thoát được cái chết thì trên
nhân gian này còn gì quý bằng! Ở đây chúng tôi xin giới thiệu quý vị phương thuốc
hi hữu duy nhất trên đời, nếu quý vị uống nó vào thì “bất tử”, chính là tánh giác
của quý vị đấy. Người giác ngộ tánh giác là nhận ra được cái “bất tử”. Vì
thế tánh giác này được Phật dụ là hòn ngọc như ý. Được hòn ngọc này rồi, con người
dứt sạch mọi đau khổ; mọi mong cầu đều toại nguyện. (Thiền sư Thích Thanh
Từ) – (Thiền Tông VN Cuối Thế Kỉ 20; Thích Thanh Từ).
* Lục Tổ nói lên câu đầu tiên liên quan đến sự chứng nghiệm của Tổ là
“xưa nay không một vật” và sau đó là “kiến tánh”, cái tự tánh vì là “không
một vật” nên là “Không”. Vì thế “thấy tánh” là “thấy Không” như Thần Hội nói.
(Thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki) - (Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn
Kinh); D.T.Suzuki; dịch giả:Thuần Bạch).
* Trước Big Bang thời gian chưa
trôi: mỗi giây tương ứng với vĩnh cửu. Chúng ta ước đoán thế vì vật lí lượng tử
xuyên qua ảo ảnh thời gian, tách khỏi đồng hồ nguyên tử để đi sâu hơn vào nhà
máy Tự nhiên. Rung động dừng lại tại mức độ sâu nhất. Đáy của vũ trụ giống như
bộ não chết. Tuy nhiên biểu hiện của cái chết là ảo giác, vì biên giới nơi mọi
hoạt động chấm dứt đánh dấu sự bắt đầu một vùng mới, gọi là thực tại ảo – nơi
vật chất và năng lượng tồn tại dưới dạng tiềm năng thuân tuý. Cơ sở của
thực tại ảo rất phức tạp nhưng nói một cách đơn giản nhất, vùng phi vật chất phải tồn tại để sinh ra vũ trụ vật chất.
Vùng này trống rỗng nhưng không hề hư vô. (…) Sáng tạo nhảy vọt từ trống
rỗng lên đầy tràn, cũng như vĩnh cửu nhảy vọt từ phi thời gian sang đầy tràn
thời gian.
Nếu vĩnh hằng đang cùng với ta bây giờ, làm cơ sở cho toàn bộ tồn
tại vật chất, nó phải làm cơ sở cho tôi và bạn. (Tiến sĩ y học Deepak Chopra) - (Sự Sống Sau Cái Chết; Deepak
Chopra; dịch giả: Trần Quang Hưng).
* Trong Truyền Đăng có chép rằng:
“Thượng thư Ôn Tháo hỏi ngài Khuê Phong: Người ngộ lí, một phen tuổi thọ hết, gá
nương chỗ nào? Khuê Phong đáp: Tất cả chúng sinh đều có đầy đủ linh minh tánh
giác, cùng với chư Phật không khác. Nếu hay ngộ tánh này tức là pháp thân,
vốn tự vô sinh có gì nương gá? Cái linh minh chẳng muội, rõ ràng thường biết,
không chỗ đến cũng không chỗ đi. Chỉ lấy không - tịch làm tự thể, chớ nhận
sắc thân. Lấy linh tri làm tự tâm, chớ nhận vọng niệm. Vọng niệm nếu dấy
lên đều không theo nó, đến lúc mạng chung, khi ấy nghiệp tự nhiên không thể cột.
Tuy có thân trung ấm mà chỗ đến tự do. Cõi người cõi trời tuỳ ý gửi nương.
Đây tức là chơn tâm trước và chỗ đến của thân sau vậy”. (Thiền sư Phổ Chiếu) – (Chơn Tâm Trực Thuyết; Phổ Chiếu; dịch giả: Thích
Đắc Pháp).
* Vì nhục thể rữa nát khi chết,
linh hồn rời đi nhập vào giới siêu hình tương ứng với sự tồn tại của nó ở bình
diện vật chất, vào tần số tương ứng với cuộc sống cũ của nó nhất. (…)
Quá trình biến đổi sau cái chết không phải là sự di chuyển đến một nơi chốn
khác hay thời gian khác; nó chỉ là sự thay đổi về chất sự chú tâm của chúng
ta. Bạn chỉ có thể nhìn thấy những gì có rung động tương ứng với bạn. (Tiến sĩ y học Deepak Chopra) - (Sự Sống Sau
Cái Chết; D. Chopra; dịch giả: Trần
Quang Hưng).
* Giác ngộ không phải là một công việc riêng tư chẳng
can dự gì đến khối lớn cộng đồng; điểm tựa của nó được đặt ngay trong lòng vũ
trụ. (…) Cái được gọi là “thiện căn” chỉ có giá chừng nào nó làm lợi ích cho tất
cả thế gian. Nếu không thể phụng sự cho toàn thể môi trường gồm những thân thuộc
mà mình đứng trong đó – nghĩa là, nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không
trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức”của y không phải là “thiện đức”
thứ thiệt, và chẳng có cái lối chứa nhóm nào như vậy mà lại có thể làm
trỗi dậy ước vọng giác ngộ (tức Bồ-đề tâm).
(Thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki)
- (Thiền Luận - quyển hạ, luận IV;
D.T.Suzuki; dịch giả: Tuệ Sỹ).
* Nền vật lí này bây
giờ đã thấy rằng vũ trụ là một mạng lưới chằng chịt vật chất và tâm linh
liên quan mật thiết với nhau, mà mỗi phần tử chỉ được định nghĩa trong mối
tương quan với toàn thể. (Giáo sư vật lí Fritjof Capra) – (Đạo Của Vật Lí;
F. Capra; dịch giả: Nguyễn Tường Bách).
Chùm
8:
* Bảo rằng “Duy tâm” là do bởi tâm, cũng là được sinh ra
từ tâm; khi thông hiểu được các tướng trạng đặc thù trong tất cả những biến
đổi có thể có được thì chúng không gì khác hơn là chính cái Tâm. (Phần Tổng kệ của kinh Lăng Già) – (Nghiên Cứu Kinh Lăng Già; D.T.Suzuki;
dịch giả: Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn Mẫn).
* Trường ý thức là cơ sở của mọi hiện tượng trong Tự
nhiên, bởi vì khe hở tồn tại giữa mọi electron, mọi ý nghĩ, mọi khoảnh
khắc thời gian. Khe hở là điểm khống chế, sự tĩnh lặng ở tâm của sáng tạo, nơi
vũ trụ liên kết mọi sự kiện. (…) Chúng ta cần nhớ nguồn gốc chung của
mình. Tinh thần con người suy thoái khi chúng ta hạn chế mình trong một kiếp
người và giam trong một thể xác. (Tiến sĩ
y học Deepak Chopra) - (Sự Sống Sau Cái Chết; D. Chopra; dịch giả: Trần Quang Hưng).
* Tôi tuyệt đối tin rằng sự sống vật thể trên trái đất đã được tạo ra bằng cách hồn cô
đặc dần. Mọi học lí cho rằng, sự sống trên trái đất xuất hiện do những phân
tử phức tạp tự phát sinh và cô đọng thành những cơ thể sống, không vững vàng,
xét cả trên quan niệm tôn giáo lẫn quan điểm vật lí học và hoá học hiện đại. (Nhà
bác học-giáo sư tiến sĩ y học E-rơ-nơ Mun-đa-sep) – (Chúng Ta Thoát Thai Từ
Đâu; E. Mun-đa-sep ; dịch giả: Hoàng Giang).
* Sự ô nhiễm tâm
linh không phát xuất từ đâu khác cả mà chính là ở trong mạt-na (ý), căn
gốc của tri thức và của ý chí. (Thiền sư D.T.Suzuki) –
(Nghiên Cứu Kinh Lăng Già; D.T.Suzuki; dịch giả: Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn
Mẫn).
* Giác ngộ phải gồm cả ý chí lẫn tri thức. Đó là một hành
vi trực giác phát sinh từ ý chí. Ý chí muốn tự biết nó là gì, y như thực,
ngoài tất cả các điều kiện chi phối sự hiểu biết. (…) Khi nói đến chứng đạo hoặc
giác ngộ, tự nhiên ta dễ liên tưởng đến khía cạnh nhận thức và quên mất động
lực phi thường của ý chí tác động ở bên sau, mà cũng chính là động lực cấu
tạo nên cốt cách của một cá nhân. (Thiền
sư Daisetz Teitaro Suzuki) - (Thiền
Luận - quyển thượng, luận III; D.T.Suzuki; dịch giả: Trúc Thiên).
* Giác là vậy, một trạng thái tuyệt đối của tâm dứt bặt hết
phân biệt - vọng tưởng hoặc biến kế chấp. Để thể nghiệm trạng thái kiến chiếu
muôn vật “trong một niệm” ấy phải có một khí lực dũng mãnh. (…) Và vì lẽ có “nhất niệm” mới có giác nên cần
nỗ lực vượt qua cái thế đối đãi ấy của ý thức kinh nghiệm chấp dính vào cái nhiều
thay vì cái một của sự vật. (Thiền sư
Daisetz Teitaro Suzuki) - (Thiền Luận
- quyển thượng, luận III; D.T.Suzuki; dịch giả: Trúc Thiên).
Chùm 9:
* Xin đừng hỏi: “Làm cách nào để thấy?” Ngay lúc ngài hỏi làm
thế nào, có người sẽ sẵn sàng giúp ngài, rồi ngài trở thành nô lệ của người đó.
Nhưng nếu ngài tự thấy rằng suy nghĩ và thời gian (tâm lí) thực sự là gốc rễ
của sợ hãi, không cần phải đắn đo hay quyết đoán ngài cũng vẫn hành động. Ví
như gặp con bọ cạp nguy hiểm, con rắn độc – khi nhìn thấy chúng ngài sẽ hành động
tức thì. (…) Vậy thì mỗi người chúng ta có thể cảm thấy được trách nhiệm
mà chúng ta đã tạo ra cái xã hội chúng ta đang sống không? Cái xã hội quái gở,
vô đạo đức ngoài tưởng tượng! (…) Vậy có cần nên hết sức tỉnh thức, nhận
biết được mỗi suy nghĩ? Chúng ta có thể là vậy không? (…) Tư tưởng, suy nghĩ
có thể nào mang lại trật tự không, trong khi chính cái tư tưởng bị giới hạn
này là nguồn gốc của hỗn loạn? (…) Có thể nào trí não chỉ dùng đến suy nghĩ
khi cần thôi? Những lúc cần sống với suy nghĩ là khi lái xe, khi ăn, khi viết
thư, khi làm điều này điều nọ trong thực tế. Mọi thứ này là hoạt động của cái
suy nghĩ giới hạn – nghĩa là khi cần thì suy nghĩ có thể hoạt động. Nhưng
ngoài những chuyện đó ra, sao nó lại ba hoa suốt cả ngày vậy? (Thiền sư Jiddu Krishnamurti) – (Lời Cuối Bình
Yên; J. Krishnamurti; biên dịch: Mộc Nhiên).
* Những cấu trúc mà nhà khoa học quan sát được trong
thiên nhiên thực ra liên hệ rất chặt chẽ với cấu trúc của tâm ý họ; với khái
niệm, tư tưởng và hệ giá trị của họ. Do đó, kết quả khoa học mà họ thu được
và sự ứng dụng kĩ thuật mà họ tìm hiểu sẽ rất tuỳ thuộc vào khuôn khổ tâm thức
của họ. (…) Thế nên, nhà khoa học phải
chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình, không những chỉ về tri
thức, mà cả về mặt đạo lí. (Giáo sư
vật lí Fritjof Capra) – (Đạo Của Vật Lí; F. Capra; dịch giả: Nguyễn Tường Bách).
* Pháp môn vô niệm thuộc về hàng thánh nhân, nhưng nếu phàm
phu tự tu tập theo đó, họ không còn là phàm phu nữa. (…) Ai quán vô niệm, kẻ ấy
tức thì tăng trưởng phước đức nhiều như cát sông Hằng. (…) Ai quán vô niệm, kẻ
ấy ôm trọn vạn vật trong lòng mình. (…) “Vô” có nghĩa là vô nhị tướng,
“niệm” là niệm Chân như. (Thiền sư Thần
Hội) - (Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn Kinh);
D.T.Suzuki; dịch giả:Thuần Bạch).
* Tột trước cùng sau
trở về niệm hiện tiền. (Kinh Lăng
Già Tâm Ấn; dịch giả: Thích Thanh Từ).
* Các nhà khoa học cũng đang quay lại và hướng sự tập trung
vào việc tìm hiểu cách thức suy nghĩ và trạng thái của chúng ta thực sự ảnh hưởng đến lực từ trường
bên trong và xung quanh chúng ta. (Tiến sĩ
sinh học Karen Nesbitt Shanor) – (Trí Tuệ Nổi Trội; K.N.Shanor; dịch giả: Vũ
Thị Hồng Việt).
* Các nghiên cứu tại trường Đại
học Stanford đã chỉ ra rằng thông qua suy nghĩ, chúng ta có thể gây ảnh
hưởng tới huyết áp và nhịp tim
của một người ở cách xa chúng ta. Còn các nhà khoa học tại trường Đại học Princeton đã chứng minh được quá trình trao đổi thông tin
giữa hai người ở cách xa nhau hàng nghìn dặm. (Tiến sĩ sinh học Karen Nesbitt Shanor) – (Trí Tuệ Nổi Trội;
K.N.Shanor; dịch giả: Vũ Thị Hồng Việt).
Chùm 10:
* Khái niệm quan trọng nhất trong hệ thống các thức là Tập
khí. Tập khí là gì? Về mặt tâm lí, như đã được nêu trước đây, tập khí là kí
ức, vì đấy là cái gì để lại sau khi một hành động được thực hiện, thuộc tâm
lí hay vật lí, và được nó giữ lại, được chứa đựng trong A-lại-da như một thứ năng
lực tiềm tàng sẵn sàng được trở thành hành động. Cái kí ức hay tập khí này,
hay sự quen xông ướp, không nhất thiết thuộc cá biệt, không những chỉ giữ
trong nó cái kí ức cá biệt mà còn giữ tất cả những gì mà các chúng sinh hữu tình
đã kinh nghiệm. Khi kinh bảo rằng A-lại-da có tất cả những gì đã diễn tiến từ
thời vô thỉ được chất chứa một cách hệ thống như một loại hạt giống, thì
điều này không trỏ vào những kinh nghiệm đặc thù cá nhân mà trỏ vào những gì tổng
quát, vượt khỏi cái đặc thù, theo một cách nào đó, tạo thành cái nền mà
dựa vào đó mọi hoạt động tâm lí cá nhân được phản ánh. Do đó, A-lại-da vốn là
thanh tịnh, nó là trú xứ của Như Lai tính, ở đó không có sự ô nhiễm của
cái tri thức và tình cảm đặc thù hoá nào có thể đến được; sự thanh tịnh, về mặt
luận lí, có nghĩa là tính phổ quát, và các ô nhiễm (lậu hoặc) hay tội lỗi có
nghĩa là sự cá biệt, từ đó những chấp trước và các hình thức khác nhau được
phát sinh. Tóm lại, thế giới khởi sự từ tập khí và chính tập khí vì vẫn
có tính chất phổ quát trong A-lại-da nên không có gì xấu, và khi chúng ta được
gỡ khỏi cái ảnh hưởng của sự phân biệt sai lầm thì toàn bộ hệ thống thức được đặt
thành chung quanh A-lại-da, lấy lại A-lại-da làm trung tâm, sẽ kinh nghiệm
một sự đột biến (paràvritti) mà thành sự nhận thức thực sự. Đây là điểm chủ
chốt trong giáo lí của Lăng-già.
Sự đột biến này đánh
dấu cái đỉnh điểm của tâm lí học thực hành của Lăng-già, vì chính nhờ sự kiện này
mà có thể có được sự thể hội về tự chứng Thánh trí cảnh giới, và sự thể hội
này là chủ đề trung tâm của bộ kinh. (…). (Thiền sư D.T. Suzuki) – (Nghiên
Cứu Kinh Lăng Già; D.T. Suzuki; dịch giả: Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn Mẫn).
* Người cổ xưa cho rằng, vật chất
sinh ra từ khoảng không. Nhà vật lí thiên tài Nga Ghên-na-đi Si-pốp, người đã
lập được phương trình (A. Anh-xtanh đã không lập được) mô tả vật lí chân không,
tức Tịnh vô tuyệt đối hoặc Tuyệt đối, cũng cho như vậy. (…).
Tuyệt Đối đó không đơn thuần là tịnh vô; đó là Khoảng Không có Cái gì
đó. Trước mắt, khoa học chưa biết Cái gì đó. Theo G. Si-pốp, nguyên tử và phản
nguyên tử phát sinh từ Tuyệt đối. Chúng sinh ra, đụng độ nhau và huỷ diệt nhau.
Nhưng có một lần, cách đây nhiều tỉ năm, vào một thời điểm các nguyên tử và
phản nguyên tử sau khi tạo thành trong không gian, đã tản đi. Vật chất phát
sinh từ Tuyệt đối là như vậy.
Các trường xoắn và phản xoắn (xoắn theo cách khác) siêu tần số cùng phát
sinh từ Tuyệt đối, chúng cùng huỷ diệt lẫn nhau và hỗ trợ Tuyệt đối. Nhưng cũng
có thể xuất hiện thời điểm, khi các trường xoắn huỷ diệt nhau tản đi. Thế giới
tế vi phát sinh từ Tuyệt đối là như vậy.
Theo giả thuyết của G. Sipốp: giữa các trường xoắn của thế giới tế vi
và ý thức có mối liên hệ trực tiếp, bởi các trường xoắn là những chất chứa
đu-sa và đu-khơ.
(…) Dần dà trong quá trình tiến hoá trong thế giới tế vi xuất hiện đu-khơ
– là khối năng lượng tâm thần kết đông dưới dạng các trường xoắn có thể bảo
toàn vĩnh cửu trong mình một khối lượng thông tin to lớn. Nhiều đu-khơ tạo
thành giữa chúng những mối liên hệ thông tin và tạo ra Không gian thông tin
toàn thể, tức Cõi kia (…).
(…) Mọi ngưòi đều biết rõ khái niệm karma (nghiệp), tức là các “vết tích” của các tiền kiếp để lại trong đu-khơ.
Giai đoạn trần thế ở thế giới vật thể, đu-khơ có thể hoàn thiện mà cũng có thể
thoái hoá. (…). (Nhà bác học-giáo
sư tiến sĩ y học E-rơ-nơ Mun-đa-sep) – (Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu; E. Mun-đa-sep ; dịch giả: Hoàng Giang).
* (…) Đại thừa đứng vững trên hai chân, Trí tuệ và Từ bi, cái
ý niệm siêu việt và tình yêu trùm khắp đối với tất cả các loại chúng sinh, hữu
tình cũng như vô tình. Trí tuệ nhìn thấy vào cái nhất tính của các sự vật
và từ bi thể hội cái tự tính của chúng. Vị Bồ-tát khóc cùng với các chúng
sinh đau khổ và đồng thời hiểu rằng có một vị không bao giờ khóc, ở bên trên mọi
đớn đau, sầu khổ và ô nhiễm. (…) Và sự cân bằng này được nhìn thấy trong
Pranidhàna hay bổn nguyện của vị Bồ-tát. (Thiền sư D.T. Suzuki) – (Nghiên
Cứu Kinh Lăng Già; D.T. Suzuki; dịch giả: Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn Mẫn).
* Tùng Duyệt, toạ chủ chùa Đâu Suất, thường đặt ra ba câu hỏi
sau đây để khảo nghiệm sở kiến của môn nhân đối với đạo lí của Thiền. 1) Ông bái
phỏng từ chỗ này sang chỗ khác, chỉ cốt là để thấy tánh; vậy, ngay
lúc này, tánh của ông ở đâu? 2) Biết được tự tánh mới có thể thoát
khỏi sinh tử; nhưng khi ông chết rồi làm sao thoát? 3) Thoát khỏi sinh tử là biết
chỗ đến của mình; vậy khi tứ đại tan rã, chúng ta đi về đâu?
“Tôi là gỉ?” “Tôi ở
đâu?” “Tôi từ đâu đến?” “Tôi đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề, được hỏi khác
nhau. Hiểu được một sẽ giải quyết tất cả còn lại. “Tôi là gỉ?” là một nghi vấn dò
vào tự tánh của thực tại, căn cơ của mọi sự vật chủ quan và khách quan. (…)
Trên phương diện tâm
lí, trả lời cho cái “ở đâu?”, cho thấy thái độ tâm lí căn bản của ta đối với thế
giới khách quan một cách tổng quát, và ở Thiền câu hỏi này thường khoác dưới hình
thức “ở đâu đến?”, nhờ đó thiền sư mong thấy tăng chúng tìm ra nơi trú ẩn
tâm linh của họ nằm ở đâu. Toàn bộ sự đào luyện của Thiền tông, có thể nói,
cốt ở sự đặt để này, cũng gọi là tìm tòi hay đào xới. (…) “Từ đâu?” và “Đến
đâu?”, những ai có thể trả lời đích đáng, những vị ấy quả là đã tỏ ngộ.
(…) Đạo Phật, là một
lối luyện tập tâm linh thực tiễn, dù có những lời nhằm phô diễn thẳng về kinh
nghiệm, không cho phép có sự can thiệp của lối giải thích trí năng hay siêu
hình nào ở đây. (Thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki) -
(Thiền Luận - quyển hạ, luận I; D.T.Suzuki; dịch giả: Tuệ Sỹ).
* Tất cả tâm ý thức đều từng phần, cục bộ, tù hãm,
trong khi chú tâm toàn vẹn là bao trùm ý
thức với những giới hạn của nó; do đó chú tâm có khả năng xoá bỏ biên cương và
giới hạn. (…) Thấy biết cái giả như giả là chú tâm, nhưng cái giả sẽ không được
thấy là giả khi còn có ý kiến, phán đoán, lượng giá, trói buộc… Mọi thứ này là
hậu quả của sự không chú tâm. Chú tâm toàn vẹn là quán chiếu vào mọi cơ cấu
của sự không chú tâm. Tâm có chú tâm là tâm rỗng rang. (…) Chỉ có chú tâm tỉnh
giác với một trung tâm chú tâm, nơi đó cội gốc của tư tưởng biến mất, không
bạo lực, thật tự nhiên, thật dễ dàng.
(Thiền sư J. Krishnamurti) – (Bút Hoa; J. Krishnamurti; dịch giả: Ẩn Hạc).
* Thiền, cốt yếu nhất là nghệ thuật kiến chiếu vào thể tánh
của chúng ta; nó chỉ con đường từ triền phược đến giải thoát. (…) Bấy giờ, ta
nhận ra ý nghĩa cuộc sống, ta biết rằng đó không phải là một nỗ lực mù
quáng, mà cũng không phải là trường thao diễn những bạo lực vô tri; nhưng
dầu không thấu hiểu được những ý nghĩa tối hậu của kiếp người, vẫn có
cái gì đó khiến ta vui không cùng để mà sống, và qua mọi cuộc thăng trầm ta
vẫn thảnh thơi mà an thân lập mệnh, không thắc mắc, không hoài nghi, không bi
quan yếm thế. (Thiền sư Daisetz Teitaro
Suzuki) - (Thiền Luận - quyển thượng,
luận I; D.T.Suzuki; dịch giả: Trúc Thiên).
Tuệ Thiền (Lê Bá Bôn) sưu tầm
lebabon04@gmail.com
No comments:
Post a Comment