Chế Cẩm Đình
TÂY DU KÝ (tt)
Phần 2: HẠ LÀO
Đặt chân sang Lào
trời đã tối. Nên thật tiếc là không được ngắm đất
nước xinh đẹp này dưới ánh mặt trời ngay dịp trở
lại sau gần mười năm, đành tự hẹn đến sáng sớm
mai. Tôi yêu đất nước này vô cùng, với những ký ức
hết sức đẹp đẽ của nhiều lần lên trước đó. Sau
này dầu đi qua nhiều quốc gia khác nhau, thì với tôi
nước Lào vẫn làm cho tôi thích thú hơn cả, nhiều khi
nhớ đến nao lòng.
Nói qua một chút
lịch sử nước Lào với quý bạn đọc thân mến của
tôi. “Lao/Laos” là thuật ngữ chỉ một sắc dân xuất
phát từ Vân Nam bên Trung Quốc, lúc đó còn có tên là Ai
Lao (sau này có lần lấy làm quốc hiệu) xuống định cư
tại lãnh thổ Lào và vùng Isan (đông bắc Thái) ngày nay.
Hiển nhiên là họ phải lấn át được sắc dân bản địa
gồm các chủng Mã Lai/Nam Đảo từ phương nam và chủng
Khmer từ hướng Đông Nam vượt dãy Trường Sơn qua định
cư trước đó từ lâu đời. Do đó, ngôn ngữ Lào ngày
nay là hợp chủng từ 3 ngôn ngữ chính là Quảng Đông,
Nam Đảo và Khmer. Đây cũng là tiếng nói của toàn bộ
vùng Isan bên Thái Lan với hơn 15 triệu dân gốc sắc tộc
Lào vì nguyên vùng đất đó từng thuộc về vương quốc
Lan Xang bị đế quốc Xiêm chiếm lấy. Người Pháp thời
đô hộ Đông Dương lẽ ra đã lấy lại vùng Isan cho Lào
nhưng vì bên châu Âu từ năm 1909 nước Đức bắt đầu
trỗi dậy thành một thế lực quân sự hùng mạnh nên
nước Pháp cần liên kết với đế quốc Anh để kìm hãm
sự trỗi dậy đó của nhà cầm quyền Berlin, do đó họ
từ bỏ ý định thâu tóm lại vùng đất rộng lớn bên
bờ tây sông Mekong về lãnh thổ Đông Dương vì sợ mất
lòng người Anh đang bảo hộ cho vương quốc Thái Lan lúc
đó. Cả nước Lào bây giờ chỉ hơn 6 triệu dân, so với
phần dân số gần gấp ba lần bên kia biên giới cùng một
giống nòi hẳn nhiên có một nỗi tiếc nuối về cơ hội
thâu lại đất ấy đã trôi qua hơn một trăm năm trước,
còn lâu lắm mới đỡ nguôi ngoai. Thậm chí, ở Băng Cốc
hôm nay số người nói tiếng Lào lên đến cả triệu,
còn nhiều hơn cả dân số của thủ đô Viêng Chăn chỉ
độ bảy trăm ngàn do sự dịch chuyển dân số từ vùng
đông bắc đến thủ đô của Thái Lan sinh sống, lao động
hay học tập.
Hành trình đêm nay
của tôi là một nhát cắt ngang tỉnh Savanakhet, cũng chính
là băng ngang qua nước Lào, quốc gia có vùng lãnh thổ
kéo dài tương đương hai phần ba Việt Nam, kẹp giữa bởi
dãy Trường Sơn điệp trùng ở phía đông và sông Mekong
vĩ đại phía tây. Nước Lào không có biển, nên dòng
Mekong được gọi là sông Mẹ, với với hàm ý vừa là
con sông lớn, vừa là con sông đem lại nguồn sống cho
dân tộc mình, như người Việt Nam dùng từ “biển cả”.
Xe qua chợ vùng biên
Karol mờ ánh đèn ngái ngủ, khác hẳn vẻ tấp nập ban
ngày với hàng quán người Lào, người Việt mở ra buôn
bán đủ thứ hàng xuôi ngược như chợ Lao Bảo bên kia.
Ngang bản Đông các hàng cơm xe tải cũng đã đóng cửa.
Nhớ ngày xưa chừng 4h chiều vượt khẩu lên đến đây
là ăn cơm gà bản rất ngon. Bản Đông chính là nơi chứng
kiến sự thất trận của quân lực Mỹ - VNCH trước Liên
quân Bắc Việt và Pathet Lào trong chiến dịch Lam Sơn 719
hồi năm 1971 với tổn thất nhân mạng lên đến 5.000
người và thương vong gấp đôi số đó cho cả các bên.
Băng dòng Sê Băng
Hiêng vào huyện lị Sê Pôn - tên dòng sông chảy từ Việt
Nam qua - thấy đường sá được quy hoạch ngang dọc nhiều
hơn, đèn điện sáng rực cả một vùng. Nhà sàn người
Bru, nhà gỗ hai tầng mái Thái, biệt thự kiểu Pháp chen
chúc nhau gần khu chợ huyện mới xây lại thay cho những
lều quán đơn sơ hồi trước với những dãy ki ốt kiểu
như chợ Việt Nam bám mặt đường.
Đến Phìn, cũng là
thị trấn huyện lị của huyện này gần 10h tối. Lúc
này phố xá tắt hẳn người qua lại, chỉ vài ba ngọn
đèn đường còn le lói sáng qua đêm. Mường Phìn con gái
đẹp, da dẽ trắng hồng có tiếng khắp nơi. Người Lào
giàu có trong tỉnh, người Hoa hay người Việt qua đây
sinh sống đều thích lấy con gái vùng này làm vợ.
Sê Tăng Puộc là thị
trấn khác của huyện Phìn - về phía tây chừng hai mươi
cây số ngay trên đường 9 – vẫn còn sáng đèn với các
hàng quán café - karaoke bập bùng ánh sáng hắt ra theo
tiếng nhạc điệu Thái. Sở dĩ nơi đây thức khuya như
vậy là vì đất này rất giàu trữ lượng gỗ tự nhiên,
loại hàng hóa thu hút hàng trăm hàng ngàn người Hoa, Việt
và cả Thái đến khai thác hoặc buôn bán. Hàng quán chong
đèn không ngủ phục vụ cho dân làm ăn tiêu bớt tiền.
Theo đó, các em gái khắp nơi cũng đổ về, đủ cả quốc
tịch lẫn vùng miền khắp nước Lào để kiếm sống
theo nhu cầu của dân chơi, không khác bên Việt là bao.
Bóng cây đa Phà Lan
mờ ảo trôi qua cửa kính xe khiến tôi thoáng rùng mình.
Đường 9 năm xưa rất xấu, nền đường nhựa chỉ đủ
một xe tải đi lọt, muốn tránh nhau phải né ra hai bên
lề đất đỏ. Đã vậy, từ khi xây dựng hồi những năm
30 bởi người Pháp đến trước những năm 90 thì chưa tu
sửa lần nào, lại oằn mình chống đỡ chiến tranh Việt
Nam lan sang nên ổ gà, hố trâu nhiều hơn mặt nhựa còn
sót lại. Ngày trước, xe cục 5, cục 6 vận chuyển hàng
hóa lên Lào và chở thạch cao về phải đi theo đoàn,
trước kính xe luôn vắt ngang một khẩu AK 47 hoặc cạc
bin để đề phòng phỉ bắn giết, chính là những tổ
chức người Mẹo (Hmong) thuộc lực lượng của Vàng Pao
còn sót lại sau chiến tranh sống len lõi ở các bản làng
trong rừng núi Hạ Lào. Họ thường tổ chức các cuộc
phục kích sát ngay trên các quốc lộ nước Lào để cướp
lương thực, tiền bạc từ các đoàn xe để duy trì lực
lượng. Mục tiêu chính của họ vẫn là người Việt,
với nỗi hận thù không đội trời chung do lịch sử để
lại, nên những chiếc đầu lái xe hoặc bộ đội Việt
Nam thường được những tên phỉ cắt ngay sau những trận
phục kích, đem về nhận phần thưởng gạo muối hay được
thăng cấp trong quân ngũ của họ. Chú Công, lái xe Zin
thùng cục 6, một người hàng xóm hiền lành dễ mến
khác hẳn vẻ bên ngoài có bộ râu quai nón xồm xoàn dữ
tợn với những ai mới gặp, thường cho chúng tôi những
chiếc kẹo Thái hoặc những vỏ thuốc lá Samit, Thapluong
làm xéo chơi tán đã bỏ mạng ngay tại cây đa Phà Lan
sau khi đoàn xe của chú bị lọt vào một ổ phục kích
phỉ Mẹo, chết đến mấy người trong đoàn. Hôm sau đơn
vị bên Việt qua đem xác về chỉ còn những chiếc thân,
phải điểm chỉ vân tay để xác định lại danh tính mà
trao cho người nhà vì tất cả đều đã bị cắt mất
đầu.
Mười hai giờ khuya
xe qua Đồng Hến, nếu là ngày trước thì tôi đã lái xe
rẽ phải vào mỏ thạch cao chờ sáng hôm sau bốc đá rồi
quay đầu về vượt khẩu vào cuối ngày. Nhưng nghề xe
kéo móóc đã bỏ, nên hành trình tiếp theo vẫn thẳng
hướng về phía tây nhằm thành phố Phom Vi Hản mà tiến.
Chỉ còn gần trăm cây số nữa thôi, đường bây giờ
quá tốt nên chỉ chạy chừng một giờ sẽ đến.
Thị xã Sê Nô nằm
ngay trên hai trục giao thông quan trọng của Lào là quốc
lộ 9 và quốc lộ 13 – có vai trò và vị trí như quốc
lộ 1 ở Việt Nam, chạy xuyên suốt nước Lào từ bắc
chí Nam dọc theo dòng Mekong bên tay phải. Người Pháp quy
hoạch lại hệ thống giao thông trên khắp xứ Đông Dương
hồi đầu thế kỷ 20, họ cũng đặt tên các con đường
theo cách đánh số. Đường 7, đường 8, đường 9 đều
là những con đường băng qua miền trung của hai nước
Lào, Việt – kéo dài từ bờ sông Mekong xuống đến các
hải cảng bên bờ biển Đông. Đường 13 thì xuất phát
từ biên giới Lào – Trung thuộc Muang Xai về đến
Champasak giáp Campuchia, con đường này tiếp tục băng qua
đất nước Chùa Tháp và kéo dài về đến bùng binh Hàng
Xanh ngay giữa Sài Gòn sau khi đi qua hai tỉnh Bình Phước
và Bình Dương.
Đầu thị xã là ngã
ba Sê Nô là ngã ba rẽ trái đi Salavan rồi đến Pakse,
thành phố tỉnh lị của tỉnh Champasak, vốn là kinh đô
của vương quốc cùng tên từng li khai khỏi Vạn Tượng
và trở thành nước chư hầu của Xiêm La trước khi được
người Pháp thu hồi về lại cho Lào. Pakse là thành phố
lớn thứ ba nước Lào, với rất đông người Việt mạn
Thừa Thiên, Đà Nẵng lên sinh sống. Trên đó có quần
thể đền tháp Wat Phou là một di tích tôn giáo lớn với
phong cách Hindu được xây dựng từ thế kỷ thứ năm vẫn
còn đứng đó, thu hút nhiều du khách nước ngoài đến
viếng thăm. Từ Champasak muốn qua Thái thì vượt sông
Mekong vào đất Ubon. Theo quốc lộ 13 đi thẳng thì qua
Strungtreng vốn là một tỉnh cũ của Lào bị Pháp cắt về
Campuchia. Còn đi Việt Nam thì vượt đèo Paksong trên quốc
lộ 16, đổ dốc Tha Tèng về Sê Kong trước khi qua Attapeu
rồi vào Kon Tum ở ngã ba Đông Dương ngay cửa khẩu quốc
tế Bờ Y.
Nhắc đến dốc Thà
Tèng, tôi bùi ngùi nhớ lại những ngày ăn dầm ở dề
một quán ăn trước đồn công an huyện đó chờ xử lý
xe nhà gặp tai nạn tông nhau với xe ben Thái do người Lào
điều khiển hồi năm 2003. Hai con mắt đỏ lòm như hai
cục lửa, toét đến độ ghèn chảy thành dòng do chưa
quen thổ nhưỡng. Nhưng được cái nhà chủ rất thương
bởi cô ấy có gốc bên Việt tận ngoài Hưng Yên lên lấy
chồng trên này hồi đầu năm tám mươi. Mấy đứa con
gái của cô cũng rất xinh, da trắng muốt, ngồi trông
quán và xem phim Thái, í ới tiếng Lào bình phẩm với
nhau rồi khúc khích cười khi gặp cảnh trai gái âu yếm
nhau. Các em chỉ nói được bập bẹ tiếng Việt, trìu
mến cười với tôi khi được giải thích một từ ngữ
nào đó bằng tất cả các động tác hoa tay múa chân cho
các em hiểu, rồi luôn miệng “Khọp chay, khọp chay ải”
(cảm ơn, cảm ơn anh). Vụ tai nạn đó đã làm tôi bay
hết ba mươi nghìn đô mới đưa được người và xe về,
số tiền đó có giá trị tương đương với 2 tỷ bây
giờ theo giá vàng, nên không bùi ngùi sao được.
Giữa thị xã Sê Nô
là ngã ba rẽ phải đi thủ đô Viêng Chăn theo quốc lộ
13, chỉ hơn ba trăm cây số. Thà Khẹt là tỉnh lị của
Khăm Muộn cũng nằm trên trục lộ này, nơi giao nhau với
đường 12 về Việt Nam qua cửa khẩu Cha Lo thuộc Quảng
Bình. Khăm Muộn có mỏ muối Nongbok rất quan trọng với
đất nước Lào, vì không có biển như các quốc gia khác
nên muối mỏ được sử dụng thay thế cho muối biển ở
nơi đây. Không thể bỏ qua mà không nói về biến cố
Thà Khẹt hồi năm 1946. Trước đó bà con vùng Nghệ An,
Hà Tĩnh và Quảng Bình lên đây lánh nạn cuộc chiến
Việt – Pháp kể từ sau 1945 đã ổn định cuộc sống
mới, ai dè chiến tranh lan tới tận trên này, những cuộc
tấn công của liên tiếp của liên quân Lào - Việt vào
các đồn bốt Pháp ở Thà Khẹt làm bà con Việt kiều
phải di tản lần nữa bằng cách vượt sông Mekong qua đất
Thái Lan ở Nakhon Phanom. Hơn ba nghìn nhân mạng đồng bào
mình đã ngã xuống, máu chảy thành dòng nhuốm đỏ cả
khúc sông ở Thà Khẹt – bến khách (tiếng Lào) dưới
làn bom đạn của cả hai bên chiến sự chỉ trong một
ngày 21 tháng 3. Cũng trên khúc sông ấy, tôi đã từng
được nọng Kham - một em gái người Lào từng qua Vinh
học du lịch - dẫn xuống chơi trên một nhà hàng nổi.
Trong tiếng nhạc xập xình, từng đôi trai gái bước ra
theo điệu phòn rất nhịp nhàng mà sôi nổi. Kham rủ tôi
ra nhảy nhưng tôi lắc đầu vì ngần ngại, em phải nhảy
với người khác, còn tôi ngồi thơ thẫn ngắm nhìn. Lúc
về, Kham hỏi tôi vui hay buồn, tôi chẳng biết phải trả
lời với em làm sao nữa. Mới đó đã hơn 15 năm rồi.
Vì trời đã khuya,
nên bóng rừng gỗ teck im lìm ngủ bên trái đường đoạn
ra khỏi Sê Nô không chào đón tôi như mọi hồi. Qua một
vài vạt rừng khộp, thi thoảng gặp những đốm mắt
muông thú lóe lên đóng đèn. Những chú rắn lục xanh lè
men lên đường nằm sưởi ấm vội trườn đi khi xe chạy
tới, cùng ễnh ương, cóc nhái nhảy tứ tung trước đầu
xe. Hai hàng sọ khỉ đều tắp kéo dài cả chục cây số
từ ngoại ô vào đến cửa ngõ trước khi nhường không
gian lại cho nhà cửa phố xá mờ ảo dưới ánh đèn đô
thị sáng rực cả một góc trời. Phom Vi Hản, tôi đã
đến nơi rồi!
(Phần 3: Đôi bờ
sông Mekong)
No comments:
Post a Comment