Lê văn Trạch
Văn hoá nói chung,
là biểu tượng của mọi
lề lối, phương thức sinh hoạt từ tiếng
nói, tập tục, cách ứng xử, lễ hội, tín ngưỡng đến cách ăn mặc,
lời ru, tiếng hát… gom lại; là cốt cách, sức sống… của
một cộng đồng dân cư từ nhỏ
đến lớn. Chưa
có một kết luận cụ thể nào xác định thời điểm
có mặt của người Việt
tại vùng đất Quảng Trị,
chỉ biết một điều
là đã được diễn tiến bởi
nhiều đợt di dân qua hàng bao thế kỷ. Cội
nguồn của người Việt được hình thành trong vùng châu
thổ các sông ở miền Bắc, tạo
dựng một nền văn minh, văn hoá nông nghiệp. Những người
di dân vào Nam vẫn mang
theo truyền thống ấy. Quảng
Trị là một dải đất
hẹp nhưng có nhiều
hệ sinh thái, nhiều khu vực nông nghiệp
khác nhau, không phải
là một nơi dễ
dàng làm ăn sinh sống,
hàng ngày người
dân đối mặt với nhiều
thứ khắc nghiệt. Do bản
năng sinh tồn, họ chiến đấu và chiến thắng mọi
gian nguy để tồn tại và phát triển.
Góp phần vào việc giảm bớt
sự căng thẳng để tạo
nét hài hoà trong sinh hoạt đời thường, họ nghĩ ra
những thứ để thưởng
ngoạn, vui chơi dân giả. Đó
là những chuyện thần thoại,
chuyện cười, những nhân vật
có óc khôi hài, châm biếm,
những câu ca, lời ru tiếng hát, điệu
hò; tất cả do mang một nét đặc thù Quảng Trị, một
nền văn học dân gian. Trong phạm vi một bài viết
ngắn chúng tôi chi giới thiệu những
thể loại có tính cách đại chúng là Thơ Ca Hò Vè với
một số nội dung tiêu biểu
mà xin bỏ qua
những mẫu chuyện, những
con người đã tạo nên sắc thái vui tươi thú vị nhưng chỉ
hạn hẹp trong một địa phương
nào đó.
Thơ Ca Hò Vè là sản phẩm của nông dân, phản ảnh bao trùm mọi sinh hoạt với một loại ngôn ngữ bình dân mang tính đại chúng, cho thấy rõ nét cái chơn chất mộc mạc nhưng thắm đậm nhân tính của con người Quảng Trị. Tạm thời có thể sắp xếp theo các thể loại sau:
I / Tục ngữ:
A. Về thời tiết và sản
xuất
Cò ăn ruộng sâu thì nắng
Cò ăn ruộng cạn thì mưa
Công cấy thì bỏ, công làm cỏ thì ăn
Chớp ngã Cồn Tiên, mưa liền gặp trộ
Đập đất
nhỏ, luống đánh to
Xung quanh rắc đậu, trồng ngô xen vào
Đói thì ăn môn ăn
khoai
Đừng thấy
ló lỗ giêng hai mà mừng
Trăng rằm đã to lại tròn
Khoai lang đất cát đã ngon lại bùi
Xứ Cùa đất
đỏ ba dan
Ai ơi trồng
mía làm giàn thả
tiêu
B. Về
đời sống xã hội
Liệu cơm
mà gắp mắm ra
Liệu cựa liệu
nhà mà gả con
vô
Khun ba năm không ai biết
Dại một
giờ bạn hay
Đi buôn bữa lỗ bữa
lời
Ra câu giữa vời bữa
có bữa không
Ai ơi chớ lấy học trò
Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm
Khoai lang cổ bở cổ trân
Làm rễ họ Trần cực lắm
ai ơi
Bỏ công múc nước
đường xa
Có trong
thì múc, ngà ngà thì thôi
Sui gia là
bà con tiên
Ăn ở không hiền là bà con quỷ
II / Câu đố:
Hai người ở hai buồng
Ngó đi nhìn lại như tuồng cấm cung
Đêm về sập cửa
thả chông
Ngày thì vòi vọi đứng trông nhau hoài
(Hai con mắt)
Gặp nhau đây bất
luận đêm ngày
Lật ra xem thử
lỗ này ở đâu
Đâm vô thì rút ra mau
Đừng để
trung nớ mà đau lòng
nàng
Rút ra máu chảy tràn lan
Khi nớ duyên thiếp, nợ chàng ngái xa
(Đạp gai)
Họ hàng chỉ sống trên non
Tìm cây hút nhụy nuôi con tháng ngày
Không may lửa dậy khói bay
Thảm thương ấu tử sống
rày thác mai
(Tổ ong bị đốt)
Cây xanh mà
lá cũng xanh
Dầm mưa dãi nắng theo anh võ vàng
Một mai lửa
đỏ thành than
Mây bay khói lượn truớc mặt
chàng, chàng ơi
(Cây thuốc lá)
III/ Vè:
Một thể loại truyền khẩu
rất phổ thông, dễ nhớ, thường là mô tả cảnh
sinh hoạt ở nông thôn, một nhân vật đặc biệt, đôi khi nêu thói hư tật xấu với
dụng ý giáo dục .
A. Vè Ba
Lòng:
Thanh trời rạng thấy
núi xây
Rừng xanh suối
bạc đáo vầy tứ phương
Trà Trì, Văn Vận hai phường
Đá Nầm, Chinh Thạch giao lương thuận
hòa
Tháng năm bắp đã tới mùa
Chè thơm mít chuối
bên Cùa gánh sang
Bao nhiêu thao vải, lụa hàng
Vật gì phường
chợ cũng băng ngàn
trải lên
Đò thì mắm nục, mắm
nêm
Đò thì cá khô, muối ruốc cũng mang lên tại
phường
Đò thì gạo, nếp, trứng,
đường
Đò thì vàng bạc, lược, gương, cau trầu
Đò thì ghè, đục, ang, âu
Tréc, om, trình thống, dĩa dầu, bình vôi
Buôn chi thì nỏ có lời
Lưỡi cày, lưỡi
cuốc, núc, nồi, đá, dao
Buôn chi than, vải lụa thao
Nhuộm màu xanh lục, rêu rao thêu thùa
Bao nhiêu cũng nhờ hột bắp mà thôi
Rồi mùa ngó lại,
giơ cồi với
mao
B. Vè thằng nhác
Lẳng lặng
mà nghe
Kể vè thằng
nhác
Gia đình khổ cực
Vợ
yếu con thơ
Chồng
ai được nhờ
Chẳng
nên trò trống
Nửa
ngày thức dậy
Lục
đục soong nồi
Vắt
áo đi chơi
La cà hàng xóm
Vợ
nhờ cày ruộng
Tao bị đau chân
Vợ
nhờ quét sân
Đau lưng vẹo cổ
Vợ
nhờ bửa củi
Cái búa nó hư
Vợ
bảo đi bừa
Sợ
rằng trâu húc
Vợ
nhờ đi gặt
Tao gánh đau vai
Thở
ngắn than dài
Tội
tình chị vợ
Ấy
thế mà!
Nồi
cơm vừa dở
Chưa kịp
ai mời
Cúi cổ cúi tai
Một
hồi chén sạch
Là cái thằng nhác
Ăn dữ
không làm
Hỡi
xóm hỡi làng
Nghe vè thằng nhác
C. Vè con gái
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè con gái
Tay chân mềm mại
Khác thể bông ba
Chờ
mẹ đi ra
Cắp
tiền thu dấu
Muốn
ăn khoai nấu
Muốn
ăn khoai nướng
Muốn
ăn xôi chè
Ăn rồi
ngồi xếp bè he
Cái lưng bơ bừng
cái thúng
Ăn chùng ăn vụng
Cho sướng cái thân
Việc
nỏ muốn mần
Dôông thì muốn lấy
Áo năm bảy cấy
Mược
vào đi chợ
Béng ướt dụy
tôm
Hai tay bóoc lá
Lộ
mồm hả ra
IV/ Đồng dao
Bập bong bong tay mô
khôông tay mô có
Bập bò bọ tay mô có tay
mô khôông
Chị
lấy dôông em ở quá
Chị
ăn cá em mút xương
Chị
đường em mật
Chị
vật em coi
Chị
voi em ngựa
Chị
bựa em bèn
Chị
kèn em trống
Chị
trống em mái
Chị
méo em tròn
Hai hòn về chị
Rầm
rà rầm rì
Xây lúa Đồng Nai
Cơm gạo
phần ngài
Tấm
cám phần tui
Lờ
đệng cháy nhà
Bà già chạy chựa
Cháy nửa bồ thóc
Lóc cóc chạy về
Ông Đề hỏi
răng
Cu Nhăng cắn nhện
Heo chi – Heo lang
– Lang chi – Lang cẳng
– Cẳng chi – Cẳng giò –
Giò chi – Giò móng – Móng chi – Móng heo
V/ Câu đối
Văn
vận tuột quần Văn vận
vận
Bích
La đau bụng Bích La
la
Cam
Lộ buôn cam, Cam Lộ Lộ
Bích
giang không nón, Bích giang giang
Tân
Trúc trồng tre, thở hoi hóp
Đông
Hà xúc hến hát ngêu
ngao
VI/ Ca dao
Ca
dao chiếm phần lớn nhất
trong văn học dân gian,
biểu hiện tâm hồn giàu tình cảm,
phóng khoáng của người nông dân, một thứ tình cảm
bình dị chơn chất
trong sáng như cuộc đời
hiền hòa đôn hậu của họ, được thể hiện
trong mọi tình huống, hoàn cảnh về gia đình, xã hội, đặc
biệt là về tình yêu đôi lứa, một đề
tài muôn thuở
A. Quan hệ gia đình
Biết răng chừ cá gáy hóa rồng
Để đền công ơn Thầy Mẹ ẵm
bồng ngày xưa
Chị
em như chuối nhiều
tàu
Tấm
lành che tấm rách, đừng nói nhau nặng lời
Cây kia ăn quả ai trồng
Sông kia uống nước
hỏi giòng từ đâu
Cơ đồ gầy
dựng bấy lâu
Công lao tiên tổ lẽ đâu quên hoài
Mộ
phần gìn giữ hôm mai
Những
ngày lễ tết chẳng sai lệ
thường
Có chồng rồi
khác chi con ngựa
có dây cương
Lôi mô chạy nấy khổ trăm
đường ai ơi
Còn cha gót đỏ như son
Một
mai cha chết, gót con đen
sì
Mẹ
già ham việc tiếc công
Cầm
duyên con lại thu đông
mãn rồi
Mãn rồi cai đội
hồi hương
Trai về làm ruộng,
gái buôn nuôi chồng
Ra đi bố mẹ ở nhà
Gối
nghiêng ai sửa, chén
trà ai bưng
B. Quan hệ xã hội
Ai về Đông
Hà, ai qua Cam Lộ
Ai về Gia
Độ, ai đến Gio Linh
Ai về Triệu Phong, Quảng Trị quê mình
Cho em nhắn gởi
chút tình nhớ thương
Bạn
về không có chi
đưa
Môn khoai đang dại, mít dừa đang non
Cây cao bóng mát chẳng ngồi
Lại
ngồi trửa nắng trách trời
không dim
Cây khô xuống nước cũng khô
Phận
nghèo đi tới chỗ mô cũng
nghèo
Con quan lấy đứa
mần than
Nắng
mưa phải chịu cơ hàn
phải theo
C
. Quan hệ lứa đôi
Trăng lên tới đó rồi tề
Nói chi thì nói, em về kẻo khuya
Bướm
vàng đậu đọt cau tơ
Kiếm
cái nơi mô nương tựa
Chơ răng cứ vất vơ rứa hoài
Chàng ơi phụ thiếp làm chi
Thiếp
là cơm nguội
những khi đói lòng
Đi mô cho thiếp đi cùng
Đói no thiếp chịu,
lạnh lùng thiếp theo
Cam chua, quýt ngọt… bồng the
Thấy
em nho nhỏ, anh ve anh để dành
Xa anh có bấy nhiêu ngày
Tình em như mảnh trăng gầy nửa đêm
Hai ta mót củi một cồn
Bứt
tranh một chỗ, tiếng đồn
thật xa
Em đương vút nếp hong xôi
Nghe anh lấy vợ,
thúng trôi nếp chìm
Ai hay nông nổi mần ri
Ngày xưa ở rứa, vội
chi trao lời
Anh đã có vợ thời thôi
Không phải mắm
nêm chuối chát mà
muốn moi cho nhiều
Anh về đừng
có ngó lui
Để
em ngó dọi ngùi ngùi thêm
thương
Anh đưa em
lên đến
ngã tư sòng
Em trở Về Cam
Lộ, anh trở lại Triệu Phong với
ai chừ
Được
nên chồng nên vợ thì hay
Rủi
thời đói khổ có ăn mày cũng phu
thê
VI.
Hò:
Hò là thể loại dân ca phong phú, đa dạng, có tính quần chúng và mang nét đặc thù Quảng Trị Đó là một hình thức sinh hoạt sôi nổi, được diễn ra trong công việc đồng áng, lễ hội hay là một cách giải trí trong buổi nông nhạn Có nhiều điệu hò và cách hò tùy theo không gian thời gian, lao động nặng nhọc khác nhaụ Quét vôi thì hò hụi, giã gạo thì hò khoan, hò hô, chèo đò thì hò mái nhì, nếu đò mắc cạn thì hò mái đảy, hò rủ rơm, hò đánh bài thai, bài chòi, hò kéo gỗ, hò ru và hò đối đáp… Ở đây chúng tôi xin giới thiệu mấy điệu hò tiêu biểu:
A. Hò ru:
Tất cả chúng ta đều
lớn lên từ 4 tao nôi và lời ru của Mẹ.
Làn điệu ngọt ngào êm dịu như đã
thấm vào máu thịt xương tủy và cũng lớn lên theo giòng đời . Qua năm tháng nổi trôi, lời ru luôn luôn là sự gợi nhắc
tình cảm, nghe mãi nhưng nghe lại
vẫn không khỏi bồi hồi:
Khi con thức Mẹ cho
con bú
Khi con lú Mẹ lại ru hời
Nuôi con cực lắm
con ơi
Chỉ
mong cho con lưng dài vai rộng
Để
lấp biển vá trời như ai !
Mẹ
thương con ngồi Cầu Ái
Tử
Vợ
trông chồng đứng núi Vọng Phu
Mai đây bóng xế trăng lu
Con ve kêu mùa hạ
Biết
mấy thu đợi chờ
Em nghe anh đau đầu chưa khá
Em đây băng đồng chỉ sá bẻ nạm lá qua xông
Ước
làm sao cho nên đạo vợ chồng
Đổ
mồ hôi ra em chặm
Lại
ngọn gió lồng em che
Ru hời
ru hỡi là ru
Bên cạn thời
chống bên su thời chèo
Xây thành đắp lũy trên non
Cắm
hoa dưỡng nước nuôi con tháng ngày
Một
mai lửa dậy khói bay
Con ơi ! Mẹ không
biết sống rày thác mai
Ơn cha ba năm báo bổ
Nghĩa mẹ chín tháng cưu mang
Bên ướt Mẹ nằm bên ráo con lăn
Lấy
chi trả nghĩa sinh
thành
Lên non tạc đá xây lăng phụng thờ
B.
Hò đối đáp:
Là một thể loại
văn nghệ tự túc độc đáo dược phổ biến rộng rãi trong mỗi
làng quê Quảng Trị trong thập niên 30, 40. Những lúc nông vụ đã tạm ổn, vào những
đêm trăng, đâu đâu cũng nghe tiếng
hò rộn ràng sôi nổi tạo nên một
không khí tưng bừng
vui vẻ. Có thể chia làm hai loại: Hò ân tình và
Hò đâm bắt.
1) Hò ân tình:
Loại này đơn giản dễ hò, có thể lấy từ câu đố, một cốt
chuyện đã có sẵn, chỉ cần
nhập vai là
hò được hoặc đôi bên đối đáp về những
chuyện trời trăng mây nước vô thưởng vô phạt Địa điểm hò thường
được chọn ở những
nhà rộng rãi thoáng
mát để có được đông đảo khán giả tham dự. Thường thì các cô gái đã đợi sẵn còn các chàng còn vòng vòng ngoài ngõ hay
trước sân:
Ai đứng
ngoài đường cho muỗi cắn ho kêu
Vô đây phân giải đôi điều cho vui
Các chàng chỉ đợi có thế mạnh dạn bước
vào:
Chào lê chào lựu chào đào
Ai xa chào trước ai gần chào sau
Chào bên nam mất lòng bên nữ
Chào người quân tử sợ dạ thuyền quyên
Cho anh chào chung một tiếng kẻo
chào riêng khó chào
Ai có chồng thì khuyên chồng đừng sợ
Ai có vợ thì xin vợ đừng ghen
Ra đây ta hò hát cho quen
Rạng
ngày ai về nhà nấy…
Khá thể ngọn đèn hai tim
Đó là màn dạo đầu,
cuộc hò sẽ tiếp tục:
Nữ: Đố anh chi sắc hơn dao
Chi sâu hơn biển,
chi cao hơn trời
Nam: Con mắt
em sắc hơn dao
Lòng
sâu hơn biển,
trán cao hơn trời
Nữ: Bánh cả
mâm răng kêu bánh ít
Trầu
cả chợ răng gọi trầu không
Ai mà đối
đặng làm chồng nữ nhi
Nam: Chuối không đi tây răng kêu chuối sứ
Cây không đi học răng kêu cây thông
Anh đã đối đặng em theo chồng
về mau
Nữ: Nghe anh thuộc sách Kinh Thi
Hỏi
anh con cá nằm dưới cỏ gọi
là con cá chi rứa
anh hè Nam: Anh đây thuộc sách Kinh
Thi
Con
cá nằm dưới cỏ anh nghĩ là con
cá tràu
Nữ: Em như bông sen trong hồ
Nữ: Em như bông sen trong hồ
Các anh như bèo
như bọt nhìn chi được
cơ đồ
nơi em
Nam: Nước lên cho sóng cuộn theo
Nam: Nước lên cho sóng cuộn theo
Cho
sen chìm xuống bèo trèo
lên trên
Nữ:
Em đây như con rồng vàng
Chín
tầng mây phủ nằm ngang giữa
trời
Nam: Anh đây có phép thần thông
Vén mây cỡi gió bắt con rồng coi chơi
Nữ: Em đây như chiếc
chuông vàng
Treo
trong thành nội có hàng
ngàn quân canh
Nam:
Quân canh dù mấy chục ngàn
Dùi
chiêng anh mang sẵn, anh
nện chuông vàng đứt đôi
Kiến
bò cột sắt sao mòn
Con vò vò xây tổ sao tròn mà xây
Kiến bò cột sắt thành đàn
Con vò vò xây tổ khám vàng cũng xây
Thương thay các cậu chự bò
Cái lưng môốc thếc thếc
Bộ
giò đen thùi thui
Em về dở sách
ra dò
Cha em lúc trước cũng chự bò như anh
Trai không vợ như chợ
không đình
Mưa dông một trộ ghé mình
vào đâu
Trai chưa vợ lo phò vua vệ quốc
Chợ không đình tại thợ mộc
suy vi
Sao không lo phận thiếp lại
đi hỏi chàng
2) Hò đâm bắt:
Thường là đối đáp giữa trai và gái, loại này đòi hỏi một khả năng
thiên phú: Thông minh, nhanh nhẹn,
tháo vát. Đối thủ luôn luôn tạo bất ngờ,
không có thì giờ
suy nghĩ, chọn lựa. Người ra chiêu có lợi thế
hơn (thường
là nữ) đi những đường quyền
móc họng, phạm thượng. Ngôn ngữ ở đây thuộc loại dân gian dung tục,
các danh hò thường
không né tránh bất cứ một từ ngữ nào miễn đạt được hết ý và đưa đối phương vào thế hiểm hóc (Nhân đây cũng xin
mở một dấu ngoặc
về loại văn chương này vì gần đây
trên văn đàn hải
ngoại,
nhà lý luận
phê bình văn học
Nguyễn Hưng Quốc
có đưa ra bản thảo
về ngôn từ dung tục trong văn học dân gian miền Nạm đại
khái như: Vân Tiên ngồi núp bụi môn. Chờ khi
trăng lặn… Nguyệt Nga…) bởi thế trong phần
lược kê dưới đây nếu có một vài từ đại
loại như thế,
kính mong các bậc trưởng thượng thông cảm:
Trong đêm hò tại vùng Long Quang Linh Yên, một siêu hò đã đánh đòn phủ đầu các nam nhi:
Anh ra chi mỗi tháng mỗi ra
Cực
lòng em lắm mẹ cha hỏi hoài
Mới nghe tưởng là một lời trách móc trữ tình, thực ra chị này đem “việc riêng” của mình ra để so sánh xưng tụng thật là hết ý . Một số ngượng nghịu bỏ về. Có người đáp lại nhưng sống sượng, thiếu hấp dẫn:
Anh ra ba em cũng ra
Anh còn sống, ông cụ thác
xuống ngã ba mất rồi
Một
hôm khác tại Gia Đẳng:
Tiếng
đồn em học hết sách quốc
ngữ, hết chữ Kinh Thi
Con bò cái đi trước, con bò đực đi sau, nó cười chi rứa eng hè
Anh học hết
sách quốc ngữ, hết chữ
Kinh Thi, con bò cái đi trước,
con bò đực đi sau
nói cười nó cọ, nó đo-u sao thiếp không biết lại đi hỏi
chàng
Vùng Đá Nầm, Đá Nổi ở Ba Lòng cũng một thời nhộn nhịp: những lúc nông nhàn trai tráng miệt đồng lên khai thác lâm sản và những đêm hò lại diễn ra:
Liệu
bề đát được thì đan
Chớ
đừng đan rồi để đó mà thế gian chê cười
Cô gái có vẻ kênh kiệu, coi thường chàng trai, nhưng chàng ta bình tĩnh tung đòn phản công rất ngoạn mục:
Anh đây đan cũng giỏi, đát cũng tài
Lận
thì đè côi đè xuống,
còn nức thì xỏ ngoài xỏ vô
Đến hiệp hai thì nam danh hò bối rối:
Ra đường
lại gặp anh Ba
Anh ở “trung
nớ” anh ra răng chừ ? !!!
Chàng ta xin khất, đi tìm bà cô: là một danh hò đã gác kiếm, sau khi hối lộ một xấp thuốc Tầm Bỏi, bà đã chỉ cho câu đáp, mặc dầu không sâu sắc lắm nhưng cũng đỡ mất mặt:
Anh ở trung
nớ mới ra bựa qua
Cùng ra có cậu bên nhà kết nghĩa thầy trò
Anh nhanh chân anh tới trước còn cậu
lò dò theo sau !!!
Có những cô gái thật là lì lợm lém lỉnh đôi khi làm các chàng trai yếu bóng vía phải ngọng nghịu chùn chân:
Anh làm thợ mộc
khéo đã ra chi khéo
Đóng bức đố
xéo đã ra chi tài
Răng không giơ cái lại
chàng ra chắn mộng để thòi lòi mộng
ra
Tuy thế vẫn có những nam nhi thông minh lanh lợi, đáp lại vô cùng thỏa đáng:
Anh đã đưa cái lại
chàng ra chắn mộng
Mà thầy mẹ bên
nhà khoát khoát khoan khoan
Để
khi đi về móc áo, lỡ chừng treo khăn
Cũng đã có cô gái bạo mồm bạo miệng tung chưởng vào đối phương:
Em mua cho anh cái dù tám
cóng
Dưới
có mốc đồng
Răng anh không đội
Để
đầu không rứa hè
Nhưng đối thủ của nàng không phải tay vừa, đã bình tĩnh phản công:
Cái dù tám cóng dưới có cái móc đồng
Em đem về cho cha em đội
cho nội em che
Phận
anh là rễ đội nón tre quen rồi
Đôi khi lời đối đáp thật hóm hỉnh, thông minh:
Tiếng
đồn em lấy chồng già
Đêm nằm em thấy
ớt cà ra răng
Tre già còn dẻo hơn măng
Ớt
cà tra có hột, chớ hơn thằng ớt tơ
Văn nghệ dân gian như đã nói là một chất liệu ngôn ngữ hòa tan trong tâm thức của mọi người, nó như mạch ngầm ẩn dấu đâu đó tưởng chừng quên nhưng chỉ một giây lắng đọng khắc khoải, sẽ bừng dậy những nỗi nhớ niềm thương da diết. Đó là một kho tàng vô tận tiềm ẩn trong mỗi người Quảng Trị, không thể có một công trình tìm kiếm hoàn chỉnh .Trong phần lược ghi với một ít nội dung tượng trưng, hy vọng tạo được một khoảnh khắc thanh thản khi nhớ về quê hương.
Lê Văn Trạch
Email: letrach@yahoo.com
No comments:
Post a Comment