“NGƯỜI TỪ TINH CẦU KHÁC”
TRONG “CÁNH ĐỒNG”
Phạm Đức Nhì
Rất vui nhận
được bài Hồi Đáp Bạn Nhi Pham Về “Cánh Đồng - Một Bài Thơ Lạ” của bạn Vũ Đức.
Tôi xin phép chia “Hồi Đáp” của bạn làm 3 phần chính để trả lời cho có lớp
lang, bạn và người đọc dễ dàng theo dõi.
1/
Tại sao phải là người ngoài hành tinh chứ không thể
khác? Tại sao tác giả thơ không một lần gặp mà biết họ già hay trẻ,
xấu hay đẹp, biết những dấu vết còn lại trên cánh đồng là một thứ
phương tiện bay nào đó mà Đông, Tây, Kim, Cổ chưa từng một lần thấy?
Chỉ có tác
giả mới có thể trả lời câu hỏi này của bạn rõ ràng và đầy đủ nhất. Hy vọng khi
bài viết này đăng bạn sẽ nhận được câu trả lời từ anh ấy. Với nhận xét chủ quan
của một người bình thơ, trong trường hợp Cánh Đồng, tôi thích sự lựa chọn
“người từ tinh cầu khác” của tác giả. Nó là sự đột phá, giúp - về phương diện
tứ thơ – đưa bài thơ vượt lên phía trước so với một số thi sĩ khác cùng viết về
chủ đề “chữ dâm” này. (Tôi đã so sánh với Đậu Thị Thương và Đinh Thị Thu Vân).
Nếu chọn “một người phi phàm nào khác” chẳng hạn, độ mới lạ làm sao sánh được
với Đinh Thị Thu Vân khi chị “rao bán trái tim” mà:
không cần
chọn lựa người mua
không cần sòng phẳng!
không cần sòng phẳng!
chỉ để mong
nhận lại một chút tình
một chút tình
dẫu là thương hại!
một chút tình
dẫu là thương hại!
một chút
tình
cho bớt chông chênh…
cho bớt chông chênh…
(Trái Tim
Rao Bán – Bài Thơ Đầy Bản Sắc, Đinh Thị Thu Vân, t-van.net) (1)
Về phương
diện kỹ thuật, theo tôi, đó là một thủ pháp được thực hiện rất thành công.
Riêng về kịch bản, như tôi đã nêu trong bài bình thơ, là chỗ yếu của bài thơ.
Nó đặt ra nhiều câu hỏi khó trả lời thỏa đáng – như câu hỏi thứ hai của phần 1
này chẳng hạn.
2/
Tôi thống nhất với bạn Nhi Pham khi ví bài thơ như một
cây cầu duy nhất. Trong khi bản thân nó là rộng hẹp bất tư. Cả bước
trên mặt cầu, và cả phải cởi bỏ trang phục dầm người lội mới mong
qua cầu. Cha mẹ ơi, mới là thơ mới. Mới đến mức để hiểu nó, hoặc
là giống chuột lụt. Hoặc nguyên xi như lúc bà mụ vừa nặn thành ta.
Đúng là mới như vừa sinh hạ.
Nguyễn Hưng Quốc cho rằng “Thơ là cảm xúc đi tìm một đồng cảm”.
Làm thơ là đem suy nghĩ, tâm trạng của mình trải trên trang giấy (bằng kỹ thuật
thơ) để có người đọc, hiểu và chia sẻ những suy nghĩ, tâm trạng ấy của mình.
Muốn thế, tứ thơ, ngoài những nhiệm vụ khác, phải là con đường đễ người đọc
theo đó đến với cánh cửa trái tim của tác giả.
Cũng như bạn Vũ Đức, tôi rất ngán những bài thơ của những thi sĩ
theo trường phái “Đem Con Bỏ Chợ”. Thơ của họ, cứ vài câu lại dẫn người đọc đến
“bùng binh”, có đến 6, 7 ngã rẽ mà không có lời chỉ dẫn đi về hướng nào nên
người đọc cứ phải … đi đại và rồi bám theo tứ thơ chừng nửa bài là “bơ vơ
giữa chợ“, “lạc nẻo đường tình”. Tôi đã nhiều lần được mời “ăn tân gia”
nhưng vì bị chỉ đường sai nên không đến được ngôi nhà mới – nơi đãi tiệc.
Tấm Bản Đồ Vẽ
Sai
Chọn lô
đất tốt xây được ngôi nhà mới
ông mở
tiệc mừng tân gia
“Đến
chơi! Hay lắm!”
thư ông
viết
mời
bằng hữu gần xa
Ngay
giữa trang thư một bản đồ
dọc
ngang tự tay ông vẽ
và lời
chỉ dẫn cặn kẽ
đường
đi nước bước đến cuộc vui
Giờ hẹn
đến rồi
chưa
thấy bóng khách mời nào xuất hiện
đồ ăn
nguội lạnh
bàn
tiệc vẫn vắng tanh
Vài
ngày sau
ông
nhận được mấy thư trả lời
trong
thư chỉ vỏn vẹn:
“Xin
lỗi!
Không
tìm thấy nhà.” (2)
Ngược lại, có những bài thơ đường đến “bến bãi” rất dễ đi nhưng
lạc thú thưởng thức cái đẹp trên đường đi thì quá ít mà đến “bến bãi” rồi thì
“hết”.
Thơ của những thi sĩ non tay thường là “tứ hết thì ý cũng chẳng
còn”. Bước chân vào “điểm đến của tứ thơ” là người đọc có quyền ung dung ngơi
nghỉ. Hành trình thưởng thức thơ của ngài đã chấm dứt. Ngược lại, với bài thơ
của thi sĩ cao tay, khi người đọc vào “điểm đến của tứ thơ”, nếu muốn, ngài có
quyền thả hồn đi tiếp. Và cái hay, cái đẹp thực sự của thơ, cái đem lại cho
người đọc rất nhiều khoái cảm thường tụ hội ở đoạn đường đi tiếp ấy.
(Chức Năng
Truyền Thông Của Cánh Đồng, PĐN, phamnhibinhtho.blogspot.com) (3)
Có đoạn ca
dao 4 câu tôi thuộc lòng từ hồi còn nhỏ vì mẹ tôi thường hát ru mấy đứa em:
Rau răm
ngắt ngọn lại giồng (trồng)
Em yêu anh
lắm sợ lòng chị ghen
Anh về bảo
chị đừng ghen
Để em thấp
thoáng bên đèn cho vui
Nhưng gần ba
chục năm liền tôi vẫn không hiểu tại sao các cụ ta lại đưa cái câu vớ vẩn, lạc
quẻ “Rau răm ngắt ngọn lại giồng” vào đoạn ca dao ấy. Đến khi tình cờ
được ông bác họ giải thích cho hiểu, tôi thấy hay quá, cái cảm giác “sướng” cứ
bám lấy tôi mấy ngày liền. Đúng là tôi đã phải “cởi quần áo bỏ vô bọc ny
lông – chỉ mặc quần lót – bơi qua.” để hiểu được ý một câu
ca dao. (Xin bạn Vũ Đức hiểu nghĩa bóng của câu “cởi quần áo…” chứ nếu cứ đè
câu văn ra hiểu theo nghĩa đen thì “kẹt” nhau quá.) Thật ra, ý của câu ấy chẳng
cao xa gì (khi đã biết); thế giới thi ca có nhiều bài cái ý ở đàng sau tứ thơ
muốn hiểu ra còn khó hơn nhiều.
3/
Có điều, dù tư duy có trừu tượng đến đâu, cái không có
cứ là không có. Cũng giống như không thể bổ cuốc vào mây trời và
thấy một con “giun mây“ như ta vẫn đào giun dưới đất. Không có trực
quan sinh động, Mọi tư duy hoặc là khiên cưỡng, hoặc là điêu ngoa. Logic
là bất biến. Ngôn ngữ có hào nhoáng, câu cú có long lanh mấy mà phi
thực tế, mà bịa đặt đều tỷ lệ nghịch với mọi cảm nhận.
Bạn Vũ Đức
nói có lý. Nhưng có lẽ bạn quên 2 điều: Sự xê dịch của kịch bản thơ và lối nói
thậm xưng.
Xạo Vì Xê
Dịch Kịch Bản Thơ
Muốn thơ hay, tâm trạng phải thật, cảm xúc phải thật. Đó là điều
cốt yếu. Trường hợp kịch bản cũng hoàn toàn thật nữa thì quá tốt; nếu kỹ thuật
thơ của thi sĩ nhuần nhuyễn, bài thơ sẽ dễ có nhiều cảm xúc, và nếu hội đủ một
vài điều kiện khác nữa, hồn thơ có cơ hội xuất hiện.
Nhưng không phải lúc nào kịch bản của bài thơ cũng “vừa khít” với
tâm trạng. Đôi khi thi sĩ phải xê dịch, điều chỉnh chút ít để có sự ăn khớp cần
thiết. Là một người làm thơ, thú thật, tôi cũng có một số lần làm như vậy. Chưa
có sự đồng thuận của tất cả những người làm thơ, nhưng tôi nghĩ những xê dịch,
điều chỉnh chút ít ấy có thể chấp nhận được. (4)
Mời đọc đoạn
kết bài thơ Giấc Mơ Anh Lái Đò của Nguyễn Bính:
Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu
Nhà gái ăn chín nghìn cau
Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn
Lang thang tôi dạm bán thuyền
Có người giả chín quan tiền, lại thôi.
Nhà gái ăn chín nghìn cau
Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn
Lang thang tôi dạm bán thuyền
Có người giả chín quan tiền, lại thôi.
Tôi không tin là trong thực tế, con số chín (9) hoàn toàn phù hợp với số lượng những “thứ” mà ông nói đến trong bài thơ. Đúng là ông “phịa”; nhưng ông “phịa” khéo quá, “cao tay ấn” quá, nên người đọc, theo dòng cảm xúc của mình, đâu cần biết “có đúng là chín chiếc đò đón dâu, có đúng là chín nghìn cau hay chín nghìn tiền cheo, tiền cưới hay không, mà chỉ thấy cái khoảng cách giàu nghèo giữa anh lái đò và tình địch hiện ra một cách rõ ràng và cay đắng, để rồi cái cảm giác bàng hoàng đau đớn về mối tình vô vọng của anh lái đò đã như một dòng thác đổ xuống, tràn ngập tâm hồn. Ở đây thủ pháp “bày tỏ, không kể lại” được phối hợp với phép điệp ngữ (chín) một cách tài tình đã dẫn đến 2 câu kết thật tuyệt vời. (5)
Với đôi mắt chi li kiểu toán học như anh Vũ Đức đọc đoạn thơ trên
chắc là bực mình lắm?
Lối Nói
Thậm Xưng – “Xạo” Nghệ Thuật
Khác với dối
trá đời thường (trong thơ), lối nói thậm xưng là một kiểu “xạo” đầy tính nghệ
thuật. Tác giả cũng “phịa” ra những điều không thật nhưng với mục đích “để
tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong
nghệ thuật” (6)
Sau đây tôi
xin nêu ra một số câu thơ “xạo” một cách nghệ thuật.
A/
Con ho
ngực mẹ tan tành
Con sốt
lòng mẹ như bình nước sôi
Đây là 2 câu
lục bát trong bài “học thuộc lòng” thuở tôi còn học Lớp Tư (lớp 2 bây giờ). Câu
này đọc lên nghe rất phi logic. Con ho thì ngực con đau chứ làm sao ngực mẹ lại
“tan tành”? Con sốt thì người con nóng chứ sao lòng mẹ lại như bình nước sôi?
Nhưng làm mẹ là như thế. Thương con đến mức “đau cả cái đau của con”. Nó diễn
tả - rất đẹp, rất thơ - cái tình thương bao la của người mẹ đối với đứa con máu
thịt của mình. Anh Vũ Đức nghĩ sao về cái “xạo” trong 2 câu thơ ấy?
B/
Muốn gởi
đến em một áng mây
lại sợ sẽ
mưa làm Sài Gòn ngập nước
chưa kịp
về nhà
người ta
sũng ướt
mình ở xa
“con bệnh”
ai chăm
nom?
(Muốn Gởi Cho
Em, Phạm Hữu T, Facebook Phượng Kim Ngọc Huỳnh)
Anh chàng
Phạm Hữu T này phải nói là “xạo tới bến”. Ở tận nước Mỹ mà “Muốn gởi
cho em một áng mây” trong khi em ở mãi Sài Gòn. Nhưng cái phi logic – làm
đảo lộn cái trật tự đời thường, tạo đột phá trong thơ ca - ấy kết hợp
với 3 câu thơ sau lại rất logic trong nghệ thuật. Phượng Kim Ngọc Huỳnh
nghe chắc phải thấy mát từng khúc ruột.
D/
Sau cơn bão
Hayan, thành phố Tacloban (Philippines) bị tàn phá nặng nề, xác người nằm xếp
lớp. Đọc tin tới đoạn “hơn 90% dân ở đây là tín đồ Thiên Chúa Giáo”, một thằng
bạn “nặng tai”, chúng tôi thường gọi là “Kh. Điếc”, trong lúc ngồi uống cà phê
đã phát biểu (rất bố láo):
“Chắc khi dự
đoán sắp có thiên tai tao phải cho Chúa của mày mượn cái Hearing Aid quá.”
Phát biểu bố
láo của Kh. Điếc đã gợi ý để tôi viết Hai Bài Thơ Một Niềm Tin.(7) Dưới đây là
đoạn kết của bài thứ nhất - Chắc Ngài Không Nghe Thấy:
Bão yên,
nước rút
cảnh tượng
thật kinh hoàng
thành phố
tan hoang
xác người
nằm xếp lớp
Cha xứ
mở cửa
ngôi giáo
đường đổ nát
Chúa Giê-Su
vẫn ngoẹo đầu
dang tay
trên thánh giá
sợi dây điện
lủng lẳng
dưới tai
Ai đó đã đeo
cho ngài
một bộ máy
trợ thính
(Hai Bài Thơ
- Một Niềm Tin, PĐN, t-van.net) (7)
Dĩ nhiên, đây
là đoạn thơ “xạo” 100%. Sau cơn bão có ai vào nhà thờ đeo máy trợ thính cho
tượng Chúa bao giờ. Tôi đã mượn hình ảnh không thật ấy để diễn tả nỗi buồn bực,
thất vọng, pha chút oán trách của con người (có cả những người tin Chúa) đối
với Thiên Chúa. Tôi đã dùng bài thơ sau để - với cái nhìn của mình - giải thích
sự im lặng của Ngài.
E/
Cánh Đồng
Như đã trình
bày ở phần 1, sự lựa chọn “người từ tinh cầu khác” của Nguyễn Đức Tùng là rất
“đắt”, rất nghệ thuật. Với kỹ thuật thơ điêu luyện - kết hợp Show, Not Tell,
lối nói thậm xưng và thế trận “cắt cầu” – anh đã tạo được một đoạn kết hoàn
hảo, gây ấn tượng mạnh mẽ. Với óc tưởng tượng phong phú, anh đã mở rộng đến mức
tối đa quyền tự do của phụ nữ trong việc thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình.
Cao Hơn
Một Mức – Ca Từ Trịnh Công Sơn
Nhiều người
khen ca từ của Trịnh Công Sơn nhiều câu còn hay hơn cả thơ (nhưng ít ai giải
thích). Tôi chọn câu sau đây trong bài Như Cánh Vạc Bay:
Tóc em
từng sợi nhỏ
rớt xuống
đời làm sóng lênh đênh
Ôi! Chỉ có
mấy sợi tóc nàng rớt xuống – không phải xuống hồ hay sông, biển - mà là
xuống đời cũng đủ làm đời
“dậy sóng”, làm biết bao phận người chao đảo, ngả nghiêng. Làm sao mà thực
được. Cây cầu liên tưởng không chỉ bị cắt một, hai nhịp mà đã được tháo bỏ hoàn
toàn để còn lại một dòng sông mênh mông. Nhưng người đọc nhạy cảm vẫn thấy có
cái gì đó gần gũi, mời gọi và quyết tâm vượt qua. Và khi bằng cách nào đó qua
được bờ bên kia thì lại thấy câu ca từ ấy “xạo tổ” nhưng rất đẹp, rất “thơ” và
rất tuyệt. Nghe rất khoái, rất đã.
Tôi có cảm
tưởng, TCS không làm thơ nhưng ca từ của ông, nhiều câu không những đẹp hơn,
hay hơn mà hình như đã bước lên một tầng bậc mới, cao hơn hẳn nhiều loại ngôn
ngữ thường thấy ở trong thơ.
Kết Luận
Đến đây chắc
bạn Vũ Đức đã thấy tôi chẳng điêu ngoa tí nào. Tôi đã đem đến tận mắt bạn những
câu thơ rất “xạo” nhưng mức độ “xạo” lại tỉ lệ thuận với cảm giác thích thú của
người đọc. Độ “xạo” càng cao thì người đọc càng “sướng”.
Một số bạn
đọc yêu thơ quen biết đã bày tỏ thiện cảm với bài thơ và tán thành nhận xét của
tôi trong bài bình thơ Cánh Đồng - Một Bài Thơ Lạ. Dĩ nhiên, cũng có nhận xét
trái chiều. Với một bài thơ lạ, đó là chuyện bình thường. Nhưng mặc dù có
khuyết điểm, với cách nhìn thơ của tôi, đây là bài thơ hay, thành công. Và để
có sự thành công đó, lối nói thậm xưng – đưa “người từ tinh cầu khác” vào bài
thơ – đã đóng góp một phần không nhỏ.
Phạm Đức Nhì
CHÚ THÍCH:
6/ (Có Cái Gì Đó Sai Sai Trong Bài Phê Bình “Một Kịch Bản Thơ
‘Xạo’”, Diên Hồng Dương)
No comments:
Post a Comment