Nhà thơ Nguyễn Ngọc Kiên
NHÀ THƠ LỤC DU
Nguyễn Ngọc Kiên dịch thơ
Lục Du (陸游, 1125-1209) tự
là Vụ Quan (務観), hiệu Phóng
Ông (放翁), người Sơn
Âm, Việt Châu (nay thuộc Nhạn Môn Đạo, tỉnh Sơn Tây), thời Nam Tống ông đã làm
quan Tri châu, Tri phủ, còn làm quan Quốc sử biên tu, ông là một vị thi nhân ái
quốc. Sống vào thời kỳ hai hai triều Tống Kim đánh nhau, Lục Du trở thành một
người rất trăn trở vì mất nước. Khi đó người Nữ Chân (vương triều Kim) đã đánh
chiếm xuống phía nam, đất nước chia 5 xẻ 7, dân tình ly tán loạn lạc. Ông đã từng
vào đất Nam Trịnh (Tứ Xuyên hiện nay) theo phong trào chống Kim, đã từng mặc
giáp cưỡi ngựa vượt qua sông Vị cùng những toán kỵ mã yêu nước, ban đêm đột
kích quân Kim nhiều lần. Ông có “Kiếm nam từ chuyên tập” lưu truyền đến nay.
Thời tuổi trẻ ông đã bị một bi kịch về chuyện hôn nhân. Năm
20 tuổi ông kết hôn với người em cô cậu tên Đường Uyển (唐婉). Mẹ Lục Du không thích Đường Uyển
và cũng không tán thành cuộc hôn nhân này, đã cưỡng ép họ li hôn. Đường Uyển đã
đi tái giá với người khác và Lục Du thì cũng lấy vợ khác. Mười năm sau hai người
gặp lại nhau ở Thẩm Viên (沈園) Lục Du viết lên tường một bài từ rất bi phẫn là “Thoa đầu phượng” (釵頭鳳). Không lâu sau, Đường Uyển chết, Lục
Du vẫn còn lưu luyến mãi, viết bài thơ tình nổi tiếng “Thẩm viên” (沈園) được truyền tụng đến ngày nay.
Chúng tôi xin giới thiệu hai bài “Thẩm viên” về mối tình bất hủ này và bài
“Quán viên” của Lục Du.
沈園 其一
Phiên âm:
THẨM VIÊN KÌ 1
Thành thượng tà dương hoạ giốc ai,
Thẩm viên phi phục cựu trì đài.
Thương tâm kiều hạ xuân ba lục,
Tằng thị kinh hồng chiếu ảnh lai.
Thẩm viên phi phục cựu trì đài.
Thương tâm kiều hạ xuân ba lục,
Tằng thị kinh hồng chiếu ảnh lai.
Dịch nghĩa:
VƯỜN THẨM (Bài1)
Đầu thành, mặt trời xế bóng, tiếng tù
và rầu rĩ.
Vườn Thẩm lúc này đài ao không được như xưa.
Đau lòng nhìn những con sóng xanh mùa
xuân vỗ chân cầu.
Nơi này đã bao lần bóng hồng in đáy
nước.
Dịch thơ:
V Ư Ờ N T H Ẩ M (Bài 1)
Bóng xế thành hôm tiếng ốc đưa,
Đài, ao vườn Thẩm chẳng như xưa
Đau lòng nhìn sóng xuân xanh vỗ,
Cầu nọ, bóng hồng mấy độ qua
Bóng xế thành hôm tiếng ốc đưa,
Đài, ao vườn Thẩm chẳng như xưa
Đau lòng nhìn sóng xuân xanh vỗ,
Cầu nọ, bóng hồng mấy độ qua
沈園 其二
Phiên âm:
THẨM VIÊN KÌ 2
Mộng đoạn hương tiêu tứ thập niên,
Thẩm viên liễu lão bất xuy miên.
Thử thân hành tác kê sơn thổ,
Do điếu di tung nhất huyễn nhiên.
Thẩm viên liễu lão bất xuy miên.
Thử thân hành tác kê sơn thổ,
Do điếu di tung nhất huyễn nhiên.
VƯỜN THẨM (Bài 2)
Mộng đứt hương tan đã bốn mươi năm.
Cây liễu già trong vườn Thẩm không
còn giăng tơ nữa.
Thân này dẫu mai sau phải chôn vùi ở
đất Cối Kê
thì vẫn còn nhỏ lệ thương viếng dấu
người xưa.
Dịch thơ:
VƯỜN THẨM (Bài 2)
Mộng đứt hương tan bốn chục năm,
Liễu già vườn Thẩm hết tơ giăng.
Kê Sơn dẫu có vùi thân xác
Vẫn nhỏ dòng châu khóc dấu nàng!
灌園
Phiên âm:
QUÁN VIÊN
Thiếu huề nhất kiếm hành thiên hạ,
Vãn lạc không thôn học quán viên.
Giao cựu điêu linh thân lão bệnh,
Luân khuân can đảm dữ thuỳ luân (luận)?
Vãn lạc không thôn học quán viên.
Giao cựu điêu linh thân lão bệnh,
Luân khuân can đảm dữ thuỳ luân (luận)?
Dịch nghĩa:
TƯỚI VƯỜN
Lúc trẻ đeo gươm đi khắp thiên hạ
Khi có tuổi về xóm vắng học tưới vườn
Bạn cũ tàn rụng thân mình già yếu
Tâm sự uẩn khúc biết bàn cùng ai
Khi có tuổi về xóm vắng học tưới vườn
Bạn cũ tàn rụng thân mình già yếu
Tâm sự uẩn khúc biết bàn cùng ai
Dịch thơ:
TƯỚI VƯỜN
Lúc trẻ đeo gươm khắp bốn trời
Già về xóm học tưới vườn thôi
Bạn xưa tàn rụng, thân già yếu
Nỗi lòng u uẩn tỏ cùng ai.
No comments:
Post a Comment