Trong quyển “ĐI VÀO CÕI THƠ”, Bùi Giáng viết về Tuệ Sỹ:
“Tuệ Sỹ một vị sư. Ông viết văn quá nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u...
Một bữa ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ chữ Hán của ông:
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùyHiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùyHiện tiền vị liễu lạc hoa phiPhiêu bồng tâm sự tân toan lệTrí Hải đa tàm trúc loạn ty
Và xin ông chả nên lấy thế làm bực mình.
Nhưng ai có ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có vướng lụy, lại còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm? Một bài thơ “KHÔNG ĐỀ” của ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ”
*
Có lẽ Bùi Giáng là người phát hiện và bình bài thơ KHÔNG ĐỀ này đầu tiên trong tập 1, ĐI VÀO CÕI THƠ.
Thế mà, bỗng dưng bài thơ biến cái tên thành KHUNG TRỜI CŨ và từ ngữ CUNG TRỜI trong bài thơ lại biến thành KHUNG TRỜI.
“Cung trời” như là một cõi trời, một cảnh giới còn “khung trời” chỉ là một không gian bị hạn chế, bị đóng khung…
CUNG TRỜI trong Phật giáo được biết qua sáu cõi, đó là:
1. Tứ thiên vương thiên.
2. Đao lợi thiên.
3. Dạ ma thiên.
4. Đâu Suất thiên.
5. Hóa Lạc thiên.
6. Tha hóa tự tại thiên.
6 “cung trời” đã nêu ở trên thuộc về Dục giới. Ngoài ra còn có Tam thanh thiên giới, Phạn Thiên giới, Vô sắc giới, Sắc giới nữa, gồm tất cả 36 cung trời.
Xin chỉ đề cập vài CUNG TRỜI nhiều người biết:
- Cung Trời Đao Lợi:
Đây là phẩm mở đầu của Kinh Địa Tạng. "Đao Lợi" là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là "tam thập tam", tức là chỉ cõi trời Ba Mươi Ba. Tuy gọi là cõi trời "Ba Mươi Ba", nhưng đó không phải do đếm từ dưới lên trên theo thứ tự, như tầng trời thứ nhất, tầng trời thứ hai, rồi đến tầng trời thứ ba,... cho tới tầng trời thứ ba mươi ba. Cõi trời Ba Mươi Ba này vốn nằm chính giữa, và ở bốn phía đông tây nam bắc của cõi trời này thì mỗi phía lại có tám cõi trời. Do đó, tổng cộng có ba mươi hai cõi trời phân bố chung quanh cõi trời Ba Mươi Ba.
Thiên chủ của cõi trời Ba Mươi Ba là Đế Thích. Trong Kinh A Di Đà có nói đến "Thích Đề Hoàn Nhân", tức là vị Đế Thích này vậy. Ngoài ra, trong Chú Lăng Nghiêm có câu "Nam Mô Nhân Đà La Da", thì Nhân Đà La Da cũng chính là Thiên Chủ Đế Thích. Ở cõi trời thì Đế Thích là một vị Thiên Chủ; còn trong Phật Giáo thì Ngài là một vị Hộ Pháp.
- Cung trời Dạ Ma:
Dạ Ma thiên (夜摩天)là tầng trời thứ ba trong sáu tầng trời cõi Dục. Cũng gọi Diệm ma thiên, Viêm ma thiên, Tu viêm thiên, Li tránh thiên, Tô dạ ma thiên (Phạm, Pàli: Suyàma), Tu dạ ma thiên.
- Cung trời Đâu Suất:
Đâu suất thiên 兜率天 thường gọi tắt là Đâu-suất, dịch ra Hán ngữ là Tri-túc thiên có nghĩa là:
Theo từ điển Phật học Hán Việt của nhà nghiên cứu Đoàn Trung Còn, từ Đâu Suất, Đâu Suất Đà có nghĩa là Tri Túc, Hỷ Túc, Diệu Túc, Thượng Túc.
Trước kia, Đức Thích Ca Mâu Ni chưa thành Phật, thì làm Bồ tát Hộ Minh ngự nơi Cung trời Đâu Suất. Chừng ngài từ giã cung Đâu Suất mà xuống trần làm Phật thì ngài phó chúc lại cho đức Di Lặc, dặn đức Do Lặc kế tiếp ngài nơi cung ấy mà giáo hóa chư Tiên và chư Bồ Tát.
- Cung Trời Hóa Lạc:
Hoá lạc thiên (化樂天) Phạm: Nirmàịarati-deva. Dịch âm: Ni ma la thiên, Duy na la nê thiên. Cũng gọi Hóa tự tại thiên, Hóa tự lạc thiên, Bất kiêu lạc thiên, Lạc vô mạn thiên, Vô cống cao thiên, Lạc biến hóa thiên. Tầng trời thứ 5 trong 6 tầng trời cõi Dục, tức là tầng trời ở dưới cõi trời Tha hóa tự tại và ở trên cõi trời Đâu suất. Vì người cõi trời này tự biến hóa ra 5 trần cảnh để vui chơi, cho nên gọi là Hóa tự lạc.
Cung trời này cùng với các cung Dạ ma, Đâu suất, Tha hóa tự tại đều có 3 việc thù thắng hơn cõi Diêm phù đề là: sống lâu, xinh đẹp và vui thú.
*
Trong 2 câu thơ Bùi Giáng làm nối tiếp thơ Tuệ Sỹ:
“Phiêu bồng tâm sự, tân toan lệ,
Trí Hải đa tàm, trúc loạn ty.”
Cụm từ “Trí Hải đa tàm” được hiểu như thế nào đây?
- Cách hiểu thứ nhất:
“Đa” 多 nghĩa là “nhiều”
Trí Hải là tên ni cô được Bùi Giáng nhắc đến hai lần trong lời kể ở trên, nên cụm từ “Trí Hải đa tàm” có thể hiểu là “Trí Hải nhiều lông mày, lông mày Trí Hải dày, đẹp”
Đây chỉ là lời đùa cợt cho vui của Bùi Giáng. Mà Bùi Giáng đã từng đùa gọi ni cô Trí Hải là “mẫu thân Phùng Khánh” đó thôi:
“Trí Hải Ni Cô vừa rời bỏ Vạn Hạnh đi tu tiên ở trên núi. Nguyên nhân là: các vị sư ở Vạn Hạnh chế ni cô đã đẻ ra Bùi Giáng già nua, ni cô bẽn lẽn bèn giũ áo ra đi.
Sự tình nông nỗi ấy, Thích Minh Châu phải chịu trách nhiệm một phần lớn.
Phùng Khánh là bà mẹ loài người. Tôi là con người. Vậy Phùng Khánh là mẹ của tôi. Nếu tôi không phải là con của Phùng Khánh, thì chẳng ra tôi chẳng phải con người? Chẳng ra tôi là con vật?
Phân tích nghiêm mật luận lý học ra như thế, rành rành Phùng Khánh là mẹ của tôi.
Huống nữa là: trong cõi mộng mơ chiêm bao tại bình diện thi nhạc phiêu bồng, Phùng Khánh đích nhiên cũng lại là mẹ của tôi nốt. Tôi vốn là Trung Niên Thy Sỹ.
Ai đâu có ngờ rằng những bài thơ bất tử tôi làm ra là do Phùng Khánh cả đấy?
Mỗi phen tôi mơ màng nghĩ tới dung nhan diễm lệ Phùng Khánh thì giòng thơ bát ngát lại tuôn ra ào ào. Vậy thì hiển nhiên như nhiên thiên tài của tôi là do liên tồn Phùng Khánh đẻ ra vậy.
Tôi suy ngẫm suốt bao nhiêu năm trời, nhận ra sự tình cố kỳ nhiên đó, mới dám mạo muội mạnh bạo gọi Phùng Khánh bằng một tiếng Mẫu Thân. Há đâu dám bốc đồng mà gọi bướng!”
(Trích: Bùi Giáng Thi Ca Tư Tưởng - Saigon 1969)
Cho nên, 2 câu thơ
“Phiêu bồng tâm sự, tân toan lệ,
Trí Hải đa tàm, trúc loạn ty.”
Trí Hải viết hoa, tức là ám chỉ tên của ni cô.
Có thể hiểu là:
“Nỗi lòng xôn xao nước mắt chua cay rơi
Nhìn đôi mày đẹp của Trí Hải làm tâm hồn rối như tơ.”
Tâm sự lâng lâng, dòng lệ chua cay
Trí Hải mày tằm, đàn trúc rối cung tơ
Phải chăng “Trí Hải đa tàm”, Trí Hải mày tằm với nhan sắc như thế đã lắm phen làm Bùi Giáng “mơ màng nghĩ tới dung nhan diễm lệ Phùng Khánh thì giòng thơ bát ngát lại tuôn ra ào ào”.
- Cách hiểu thứ hai:
TÀM 惭 nghĩa là hổ thẹn
Câu “trí hải đa tàm trúc loạn ty” có thể hiểu là “biển học mông mênh làm thẹn lòng vì đầu óc mình thiếu minh mẫn lúng túng chưa ngộ được như đàn trúc rối loạn cung tơ”
Trở lại 2 câu thơ đầu của Tuệ Sỹ
“Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vi liễu lạc hoa phi”
Nên hai câu thơ:
“Phiêu bồng tâm sự, tân toan lệ,
Trí hải đa tàm, trúc loạn ty.”
Tâm sự bâng khuâng, dòng lệ chua cay
Hổ thẹn với ‘biển trí’ (vì chưa ngộ được), đàn trúc rối cung tơ.
Hiểu như vậy thì bài tứ tuyệt “Vô đề” ý mới liền mạch được.
Quý bạn nghiêng về cách giải thích nào nhỉ!
*
Xin dẫn những bài thơ có dùng chữ Đa tàm 多慚 (nghĩa là hổ thẹn nhiều)
Thơ Trần Tung:
Đa tàm thân trọc phùng thời trọc,
Tiểu tại tâm thanh ngộ quốc thanh.
(Thoái cư-Ẩn cư)
Thân đục thẹn sinh thời buổi đục,
Lòng trong may gặp nước nhà trong.
Có nghĩa:Thượng quốc ân thâm tình dị cảm,
Tiểu bang tục bạc lễ đa tàm.
(Tống Bắc sứ Ma Hợp)
Ơn thượng quốc sâu sắc dễ cảm tình người,
Phong tục nước nhỏ đơn giản, thẹn lễ nghi có phần sơ suất.
Thơ Trần Nhân Tông:
Nhất thị đồng nhân thiên tử đức.
Sinh vô bổ thế trượng phu tàm.
(Họa Kiều Nguyên Lãng Vận)
Có nghĩa:
Sống mà không giúp ích gì cho đời là điều đáng thẹn của kẻ trượng phu.
Bùi Giáng viết nhiều tùy bút văn học, đặc biệt là tùy bút về thi ca.
Thơ của các thi sĩ được Bùi Giáng cảm nhận theo một phong cách riêng “rất Bùi Giáng” thật dí dõm. Tuệ Sỹ là nhà thơ đầu tiên được Bùi Giáng bình thơ trong tập ĐI VÀO CÕI THƠ. Bùi Giáng viết cảm nhận thơ như người bạn tri âm đồng điệu và bài TUỆ SỸ của ông để lại những “dư vang nghệ thuật” trong lòng người đọc.
No comments:
Post a Comment