Đàn tỳ bà
TIẾNG
HỒ CẦM GIEO CẢM XÚC VÀO THƠ TÔI
Đại thi hào Nguyễn Du tả tài nghệ đánh đàn Thúy Kiều :
Cung,
thương, làu bậc ngũ âm,
Nghề
riêng ăn đứt Hồ cầm một trương
Các cụ Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim và Nguyễn Văn Vĩnh… đều
chú giải: “Hồ cầm là cây đàn Tỳ Bà, vì đời
xưa, vua Hán Nguyên Đế có bà Chiêu Quân phải đi cống rợ Hồ, thường hay đánh cây
đàn ấy, nên mới gọi là Hồ cầm”.
Nhà thơ Tản Đà lại cho rằng: “Hồ cầm là cây đàn của rợ Hồ, nguyên chính là cái nhị; vì có kiểu nhị
làm giống như cây Tỳ Bà, cho nên Tỳ Bà người ta cũng gọi là Hồ cầm”.
Nói tóm lại, các học giả đã chú giải Truyện Kiều đều
cho hồ cầm là đàn Tỳ Bà, hầu hết đều nói: “Chiêu
Quân khi đi cống Hồ, hay đánh đàn Tỳ Bà, nên đàn Tỳ Bà có tên là Hồ cầm”. Đọc
lời chú giải về “hồ cầm” của các học giả trên, ban đầu tôi đinh ninh “hồ cầm”
là đàn tỳ bà. Chỉ có ý của nhà thơ Tản Đà là có khác: “Hồ cầm là cây đàn của rợ Hồ, nguyên chính là cái nhị…”
Tìm hiểu về hồ cầm ta thấy:
Hồ cầm là một loại đàn của người Hồ (tên gọi được người Hán dùng để chỉ các dân
tộc sinh sống tại vùng giáp giới giữa tây bắc Trung Quốc với các nước Trung Á).
Nó là nhạc cụ của những người du mục, được dùng trong sinh hoạt văn nghệ dân
gian và trong các cuộc tế lễ. Như thế, nhạc
cụ này có thể có nguồn gốc từ các khu vực ở phía bắc hoặc phía tây của Trung Quốc
thường có người dân du mục cư của các bộ tộc gần Trung Quốc trong quá khứ.
Hồ cầm hiện nay có xuất xứ từ Ấn Độ và vùng Trung Á,
được du nhập vào Trung Quốc từ thế kỷ I đến thế kỷ III sau công nguyên từ người
Hồ trong thời kỳ thịnh đạt của “Con đường
tơ lụa”. Vì vậy nên người. Người Việt Nam gọi theo ngôn ngữ của mình là đàn
hồ.
Hiện nay, hồ cầm có mặt trong hầu hết các dàn nhạc dân
tộc cổ truyền Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên, Hàn Quốc, Đài Loan. Loại đàn này
cũng có mặt ở Ấn Độ, Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Indonesia, Thổ Nhĩ Kỳ, một
số nước khu vực Tây Á và Kavkaz. Loại nhạc cụ này dần dần được bản địa hóa.
Không chỉ người Kinh mà các dân tộc khác ở Việt Nam cũng chế tác đàn hồ cho
mình.
Trong các dàn nhạc cổ truyền dân tộc Việt Nam, đàn hồ
luôn có mặt. Thời cổ, dân gian Việt Nam có một loại đàn giống với đàn này, được
gọi là đàn gáo (có bầu đàn giống cái gáo, mặt đàn bằng gỗ mỏng). Do cấu tạo và
tính năng tương tự, nó được coi như một họ hàng của hồ cầm.
Từ điển Từ Hải cho chúng ta hiểu rằng:
“Hồ
cầm là tên một nhạc khí; xuất xứ tại Bắc Phiên, nên gọi là Hồ cầm; ống làm bằng
trúc, mặt căng da trăn; trên có cán nhỏ, dài chừng một thước; đầu cán có lỗ
xuyên ngang, và 2 trục, quấn 2 dây, căng thẳng trên mặt ống; dùng cung trúc căng
mã vĩ mà cọ xát thành thanh âm”.
Nhạc khí này ta gọi là Cây hồ hay Đàn gáo cùng loại với
Cây nhị hay Đàn cò.
Như vậy, hồ cầm (đàn hồ) ở Việt Nam chính là nhị hồ
(đàn nhị).
Nhà thơ Xuân Diệu có bài thơ “Nhị hồ” thật hay, trong đó có hai câu:
“Nhị
hồ để bốc niềm cô tịch,
Không
khóc, nhưng mà buồn hiu hiu...”
Cũng trong bài thơ “Nhị
hồ” này, xuất hiện hai câu thơ bình thanh cũng rất hay:
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời,
Tương
tư nâng lòng lên chơi vơi...”
Hai câu thơ trên được coi là dạng thơ bình thanh tiên
phong của làng thơ Việt Nam, đồng thời với các bài thơ bình thanh “Tỳ bà”, “Hoàng hoa” của Bích Khê, hay
bài thơ “Tiêu sầu” của Hàn Mặc Tử
Trong một đêm khuya thanh vắng, tiếng nhị hồ réo rắt ai
oán gieo vào lòng tôi nỗi u hoài, tôi đã cảm tác bài thơ lục bát “Hồ cầm” hoàn toàn bình thanh:
HỒ
CẦM
Vang đêm thanh hồ cầm
ngân
Trăng ngà giăng tơ cung
trầm buông lơi
Lâng lâng tình đang lên
khơi
Hồ, xừ, xang… lòng chơi
vơi canh dài
Mơ hồ hồn xưa liêu
trai
Mồ thu hoang vu chừ ai u
hoài
Vương mang chi, đàn ngân
dài
Lưu dư hương… ồ trang đài
về đâu
Tương tư sao, đàn dâng sầu
Say men nồng hay say màu
thời gian
Vời chân mây, nhòa non
ngàn
Bâng khuâng heo may, mơ
màng hơi thu
Ai phiêu diêu trong sương
mù
Người muôn năm… từ thâm u
quay về
Trần gian kia còn si
mê?
Hồ cầm cao cung, thương hề
niềm xưa
Rơi rưng rưng từng âm thừa
Sao trời lung linh đường
tơ chìm dần
Bài thơ “HỒ CẦM” tôi lấy cảm hứng từ các câu thơ : “Ái thính thu phần quỷ xướng thi” (Vương
Ngư Dương), “Thơ thẩn nghe ma đọc mấy lời”
(Tản Đà), “Quạnh quẽ thu phần thơ bặt tiếng”
(Vũ Hoàng Chương). Tiếng nhị hồ réo rắt, não nuột vừa bặt tiếng thì bài thơ “HỒ
CẦM” cũng xong câu cuối…
La Thụy
No comments:
Post a Comment