Tác giả Nguyễn Ngọc Kiên
ĐƯỜNG THI – CHỦ ĐỀ BIÊN TÁI (KÌ 6)
Số trước chúng tôi đã giới thiệu một số bài TÁI THƯỢNG KHÚC và TÁI HẠ KHÚC (KHÚC HÁT NƠI BIÊN TÁI) của Lí Bạch, Vương Xương Linh. Số này chúng tôi tiếp tục giới thiệu chùm bốn bài TÁI HẠ KHÚC của Lư Luân (Trung Đường).
LƯ LUÂN 盧綸 (748-800)
Lư Luân tự Doãn Ngôn 允言, người Hà Trung (nay là tỉnh Sơn Tây). Trong thời Đại Lịch, đời Đường Đại Tông, thi nhiều lần không đậu, sau có người tiến cử ra làm quan chức uý tại Văn Khanh, lần lần thăng đến chức Hộ bộ lang trung, giám sát ngự sử. Tham gia quân đội nhiều năm, thơ ông phóng khoáng, quan tâm nhiều đến đời sống nhân dân.
Lư Luân là một trong mười tài tử thời Đại Lịch (chín người kia là Cát Trung Phu, Hàn Hoành, Tiền Khởi, Tư Không Thự, Miêu Phát, Thôi Động, Cảnh Vi, Hạ Hầu Thẩm, Lư Đoan).
塞 下 曲 四 首 之 一 - 盧 綸
鷲 翎 金 僕 姑
燕 尾 繡 蝥 弧
獨 立 揚 新 令
千 營 共 一 呼
TÁI HẠ KHÚC (BỐN BÀI KÌ I)– LƯ LUÂN
Thứu linh kim bộc cô
Yến vĩ tú miêu hồ
Độc lập dương tân lệnh
Thiên doanh cộng nhất hô
Dịch nghĩa :
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 1)– LƯ LUÂN
Đầu tiên là phát lệnh, kế tiếp là lập công, kế nữa là thoái địch, cuối cùng là ca khúc khải hoàn.
Mủi tên làm bằng lông con chim thứu
Cây cờ thêu bằng đuôi con yến
Đứng oai nghi lẫm lẫm ra hiệu lệnh
Ngàn doanh trại cùng dạ rân
Dịch thơ:
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 1)– LƯ LUÂN
Tên Kim Bộc lông thứu
Cờ đuôi én rõ ràng
Một mình truyền lệnh mới
Nghìn trại cùng hô vang
塞 下 曲 四 首 之 二 - 盧 綸
林 暗 草 驚 風
將 軍 夜 引 弓
平 明 尋 白 羽
沒 在 石 稜 中
TÁI HẠ KHÚC KÌ 2 – LƯ LUÂN
Lâm ám thảo kinh phong
Tướng quân dạ dẫn cung
Bình minh tầm bạch vũ
Một tại thạch lăng trung
Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 2)– LƯ LUÂN
Trong rừng u ám cỏ lay động theo chiều gió
Tướng quân đêm tối dương cung bắn ra
Bình minh đi tìm dấu tên lạc
Tên ngập sâu vào góc đá tới tận chuôi
Dịch THƠ:
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 2)– LƯ LUÂN
Rừng xám gió lay cỏ hải hùng
Tướng quân đêm tối vội giương cung .
Bình minh tìm dấu tên bay lạc
Ngập tới tận chuôi đá lạnh lùng
塞 下 曲 四 首 之 三 - 盧 綸
月 黑 雁 飛 高
單 于 夜 遁 逃
欲 將 輕 騎 逐
大 雪 滿 弓 刀
Phiên âm:
TÁI HẠ KHÚC KÌ 3 – LƯ LUÂN
Nguyệt hắc nhạn phi cao
Thiền vu dạ thuẫn đào
Dục tướng khinh kỵ trục
Đại tuyết mãn cung đao
Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 3)– LƯ LUÂN
Trăng lờ mờ nhạn bay trên cao
Vua Hung nô ban đêm phải bỏ chạy trốn
(Tướng quân) muốn cưỡi khoái mã rượt theo
(Mà) cơn bão tuyết xuống rớt đầy cả cung đao
Dịch thơ :
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 3)– LƯ LUÂN
Trăng mờ nhạn lượn tít trên cao
Vua Hung Nô đêm trốn vượt rào
Tướng quân muốn cưỡi ngựa rượt đuổi
Baõ tuyết rớt đầy cả cung đao.
塞 下 曲 四 首 之 四 - 盧 綸
野 幕 蔽 瓊 筵
羌 戎 賀 勞 旋
醉 和 金 甲 舞
雷 鼓 動 山 川
Phiên âm:
TÁI HẠ KHÚC KÌ 4 – LƯ LUÂN
Dã mạc tế quỳnh diên
Khương nhung hạ lao tuyền
Tuý hoà kim giáp vũ
Lôi cổ động sơn xuyên
Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 4)– LƯ LUÂN
Ngoài hoang dã bày đầy những thức trân quý
Chúc mừng chiến công đuổi rợ Khương Nhung
Say xong để nguyên áo giáp nhảy múa
Tiếng trống vang dậy cả sông núi
Dịch thơ:
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 4)– LƯ LUÂN
Thức quý bày ra khắp cánh đồng
Tiệc mừng chiến thắng bọn Khương Nhung
Uống say nguyên giáp cùng nhảy múa
Tiếng trống rền vang dậy núi sông.
Chú thích:
Tái hạ khúc: tên bản Nhạc Phủ, ca khúc ở miền biên tái
Kim Bộc Cô: tên tiễn
Miêu hồ: tên cờ
Thảo kinh phong: cỏ bị gió lay động
Bạch vũ: chỉ tiễn (cây tên)
Thạch lăng: góc hòn đá. Lý Quảng tướng đời Hán, đi săn thấy viên đá trong cỏ, tưởng cọp, bắn, ngập tận chuôi, nhìn lại là đá
Thiền vu: tên của người Hung nô gọi vua
Khinh kỵ: ngựa chạy mau
Quỳnh đình: đình tiệc trân quý
Khương Nhung: rợ tây Nhung bộ lạc Khương
Lạo tuyền: khao lạo, ca khải hoàn
Kim giáp: chiến bào
Nguyễn Ngọc Kiên
No comments:
Post a Comment