Nhà thờ họ Nuyễn Đức. Ảnh Như Khoa |
Bài viết nhiều vấn đề. Tôi chỉ nêu những
vấn đề theo hiểu biết của mình.
1, Nhà thờ họ Nguyễn Đức xây dựng vào năm
1832 mà bài viết ghi ngày khánh thành
năm 1829.
2, 15 tấm ván khắc mỗi tấn 7 câu kép (5+3)
vị chi 85 câu theo thể văn khác lạ, không thấy lưu truyền phổ thông trên văn
đàn. Bài viết cho đó là 15 bài thơ theo thể thất ngôn bát cú Đường luât. Đúng,
thể thơ Đường luật 8 câu mỗi câu 7 chữ, còn trên tấm ván 7 câu mỗi câu 8 chữ.
Tôi cho rằng ngẫu nhiên mà có sự giống nhau 56 chữ nên tác giả nhầm. Đi vào cấu
trúc thể văn chúng chẳng giống nhau tí nào. Đường luật (luật trắc bằng) mỗi bài
có chủ đề, có niêm luật, có đối ngẫu, có khai, thừa, chuyển, hợp…Ở “kho báu” cứ
mỗi câu (5+3) là một chủ đề độc lập và chỉ một luât (qui định số chữ trong câu
ngắt làm hai đoạn) là 5+3.
3, 85 câu trong kho báu không phải các cụ
thông Nho trong làng sáng tác bởi tất cả không một câu nào nói về làng An Thơ.
Chắc chắn là được tuyển tập
từ những câu danh ngôn xuất sắc thời bấy giờ để giáo dục nhân dân trong cả nước.
Câu hỏi đặt ra: tại sao An Thơ lại có? Theo
tôi vùng ta chi ở An thơ mới có điều kiện sở hữu tài sản quí giá này.
1 trang 15 tấm khắc ván những câu 5+3. Ảnh Như Khoa |
Ta thử xem báu
vật:
a, Nguồn tài liệu
chỉ có cấp quốc gia (triều đình).
b, Gia công sản
phẩm cực kỳ tinh xảo: mài giũa rất trơn bóng, chữ rất đẹp, nét chạm khắc rất
sắc, chất bảo quản quá tốt. Gần 200 năm trên chất liệu gỗ mà ảnh chụp nét chữ
rỏ như mới.
c, Trình độ tuyển chọn danh ngôn không dễ.
d, Chi phí cho
chừng ấy việc phải có số tiền rất lớn.
v.v…
Khả năng này chỉ có ở làng An Thơ thời bấy
giờ. Thời đó 1820-1850 xuất hiện nhiều nhân tài: Thượng Thư Bộ Hộ Nguyễn Đức Hoạt, Tuần phủ Nguyễn Đức Hoan,
Biện tu Nội các Nguyễn Quang Huy, Tri phủ Nguyễn Đức Tư và nhiều vị nữa.
Tầm nhìn và khả
năng cỡ ấy mới dám nghĩ, dám làm, dám đưa “báu vật” từ chốn phồn hoa (có thể là
ở kinh đô Huế) về nông thôn, để làm rạng rỡ nơi quê cha đất tổ.
Trộm phép xin
thưa: các vị tham gia Triều chính nói trên cũng biết rất ít người trong làng
đọc và hiểu hết các câu mà họ đưa về thờ. Có hề chi! Dân làng chỉ nhìn tí thôi,
tôi tin làng An Thơ tức khắc trở thành LÀNG VĂN HÓA.
Tuy chưa được thấy hiện vật nhưng nhìn những
tấm ảnh chụp, tôi dám khẳng định vùng quê ta không thể chế tác nổi SẢN PHẨM NÀY
***
Nghe rằng: những
câu trong “kho báu” đã được dịch. Thực lòng tôi rất mừng bởi tôi dịch mãi chưa
một câu ưng ý. Xin ví dụ tôi dịch câu
đầu tiên:
Nhân (nhơn) giả
nan phùng tư / Hữu thường bình
Tôi dịch:
-Người tốt khó gặp điều lo nghĩ / Có, chuyện thường tình
-Người tốt it gặp điều lo lắng / Có (đúng) thế thật.
Có một nghĩa nữa
người nhân (người hiểu đạo làm người)
có liên quan đến câu 3 chữ: hữu thường
bình. Thường là ngũ thường (nhân lễ nghĩa trí tín). Dịch thế nào đây? Tôi
tự an ủi: chữ TQ càng ít chữ càng khó dịch.
Trong tôi hiểu
câu này là : Người nhơn đức trời luôn ban cho họ thanh thản, nhưng không diễn
đạt nổi.
Trong bài viết có
một câu (không phải trong 85 câu) tác giả đã dịch, tôi muốn bàn lại là câu: “Tiên năng
liễu tận thế gian sự/ Nhiên hậu phương ngôn xuất thế gian” (tác giả tạm
dịch: Trước tiên hãy hiểu biết mọi việc trong thế gian/ Rồi sau mới nói đến
việc ra khỏi thế gian)
Dịch ra khỏi thế gian không chuẩn, dễ hiểu
nhầm. Theo tôi nên dịch ra với thế
gian
Tôi không thấy chữ kính họa ở bản
khắc. Ở thể văn này và ở đây ai thỉnh họa mà có người kính họa, xướng
họa chỉ có ở thể Đường luật.
Xin có lời đề nghị: Bản dịch hoàn chỉnh,
kính đề nghị nhà xuất bản Quảng Trị phát hành rộng rải trong cả nước. Tôi lắng
tin để tìm cho được một tập và giới thiệu rộng rải với
bạn bè.
Trong bài viết có điều gì thất lẽ xin tha
cho.
Nguyễn Thanh Xuân
Đ/c: 487/ 2 Đường Cô Nhuế Từ Liêm Hà nội
Email: nhuxuan29@gmail.com
***
Mời các bạn đọc thêm bài:***
BÁU VẬT TRONG NGÔI NHÀ CỔ
trên báo Người Lao Động Online
và trên trang Blog của Nguyễn Như Khoa có liên kết trong danh sách WEBLOG bên phải của trang VNQT.
No comments:
Post a Comment