Tác giả Nguyễn Ngọc Kiên
ĐƯỜNG THI – CHỦ ĐỀ BIÊN TÁI (KÌ 9)
QUÁCH CHẤN
Quách Chấn 郭震 (656-713), tự Nguyên Chấn 元振, người Quý Hương, Nguỵ Châu (nay thuộc Danh Bắc, Hà Bắc, Trung Quốc), tướng đời Đường. Năm Trường An thứ nhất (701) nhậm đô đốc Lương Châu. Năm Cảnh Linh thứ hai (711) nhậm sử bộ thượng thư, sau làm binh bộ thượng thư. Sau hai năm có công bình nội loạn hoàng thất, được phong đại quốc công. Dưới đời Huyền Tông giữ binh 20 vạn, Quách Nguyên Chấn bỗng hạ lệnh "Chiếu đến thì việc đã xong", khiến Huyền Tông nổi giận, hạ lệnh xử trảm, sau được xin nhưng lưu phóng đến Tân Châu (nay thuộc Tân Hưng, Quảng Đông), làm Nhiêu Châu tư mã, bệnh mất trên đường.
塞下曲 – 郭震
塞外虜塵飛,
頻年出武威。
死生隨玉劍,
辛苦向金微。
久戍人將老,
長征馬不肥。
仍聞酒泉郡,
已合數重圍。
Phiên âm:
TÁI HẠ KHÚC – QUÁCH CHẤN (SƠ ĐƯỜNG)
Tái ngoại Lỗ trần phi,
Tần niên xuất Vũ Uy.
Tử sinh tuỳ ngọc kiếm,
Tân khổ hướng Kim Vi.
Cửu thú nhân tương lão,
Trường chinh mã bất phì.
Nhưng văn Tửu Tuyền quận,
Dĩ hợp sổ trùng vi.
Dịch nghĩa:
KHÚC CA NGOÀI BIÊN TÁI
Ngoài ải bay bụi Lỗ
Nhiều năm khỏi Vũ Uy
Sống chết nhờ kiếm báu
Gian khổ tiến Kim Vi.
Lính thú lâu già lão
Cả ngựa không béo phì.
Nghe Tửu Tuyền còn đó
dù bao lớp trùng vây.
Dịch thơ:
BÀI CA NGOÀI BIÊN TÁI
Bụi Lỗ bay ngoài ải
Nhiều năm xuất Vũ Uy
Sống chết nhờ ngọc kiếm
Gian khổ hướng Kim Vi.
Lính thú lâu lên lão
Ngựa chiến không béo phì.
Nhưng nghe Tửu Tuyền quận
Bao lớp trùng vây kia.
TƯỞNG CÁT 蔣吉,
Một thi nhân đời Đường.
出塞 – 蔣吉
瘦馬羸童行背秦,
暮鴉撩亂入殘雲。
北風吹起寒營角,
直到榆關人盡聞。
Phiên âm:
XUẤT TÁI - TƯỞNG CÁT
Sấu mã nuy đồng hành bối Tần,
Mộ nha liêu loạn nhập tàn vân.
Bắc phong xuy khởi hàn doanh giác,
Trực đáo Du quan nhân tận văn.
Dịch nghĩa:
RA CỬA ẢI
Trên lưng ngựa gầy với tiểu đồng ốm yếu, ra đi để đất Tần sau lưng,
Quạ bay lung tung vào mây chiều.
Gió bắc thổi vào một góc doanh trại,
Người mới tới cửa ải Du đã cảm thấy hơi lạnh.
Dịch thơ:
RA CỬA ẢI
Ngựa gầy tiểu ốm biệt đất Tần
Loạn xạ quạ bay buổi chiều tàn
Gió bấc thổi lạnh nơi góc trại
Người hơi ớn lạnh tới Du quan
LỆNH HỒ SỞ
Lệnh Hồ Sở 令狐楚 (766-837) tự Xác Sĩ 殼士, người Hoa Nguyên, Nghi Châu, là hậu duệ của danh thần Lệnh Hồ Đức Phân 令狐德棻 thời Sơ Đường, tổ tiên vốn định cư ở Đôn Hoàng. Ông là một văn học gia, chính trị gia, và thi nhân đời Đường, đỗ tiến sĩ năm Trinh Nguyên thứ 7 (791), giữ chức Hữu thập di, sau lãnh Hàn lâm học sĩ, Trung thư xá nhân, Bình chương sự, Hộ bộ thượng thư, Sử bộ thượng thư, Kiểm hiệu thượng thư hữu bộc xạ,... tước phong Bành Dương quận công, Sơn Nam tây đạo tiết độ sứ, cuối đời trí sĩ được ít lâu thì qua đời.
Con trưởng của ông là Lệnh Hồ Tự 令狐緒 làm Hà Ham thiếu doãn, con thứ là Lệnh Hồ Đào 令狐綯 làm tể tướng đời Đường Tuyên Tông.
Ông thường cùng Bạch Cư Dị, Lưu Vũ Tích xướng hoạ. Tác phẩm của ông có "Đường ngự sử thi".
塞下曲其一 - 令狐楚
雪滿衣裳冰滿須,
曉隨飛將伐單于。
平生意氣今何在,
把得家書淚似珠。
Phiên âm:
TÁI HẠ KHÚC KÌ 1- LỆNH HỒ SỞ
Tuyết mãn y thường băng mãn tu,
Hiểu tùy Phi Tướng phạt Thiền Vu.
Bình sinh ý khí kim hà tại,
Bả đắc gia thư lệ tự chu.
Dịch nghĩa:
KHÚC CA NGOÀI BIÊN ẢI (KÌ 1) – LỆNH HỒ SỞ
Tuyết rơi đầy áo băng phủ đầy râu
Sáng theo Phi Tướng đánh đuổi Thiền Vu (tướng Hung Nô)
Ý khí thường ngày bây giờ không biết ở đâu
Khi đọc thư nhà, lệ nhỏ như ngọc châu.
Dịch nghĩa:
KHÚC CA NGOÀI BIÊN ẢI (KÌ 1) – LỆNH HỒ SỞ
Tuyết rơi đầy áo băng đầy râu
Sáng đuổi Hung Nô bọn cầm đầu
Ý chí thường ngày nay đâu nhỉ?
Thư nhà cầm đọc lệ như châu.
塞下曲其二 - 令狐楚
邊草蕭條塞雁飛,
征人南望淚沾衣。
黃塵滿面長須戰,
白髮生頭未得歸。
TÁI HẠ KHÚC KÌ 2 – LỆNH HỒ SỞ
Biên thảo tiêu điều tái nhạn phi,
Chinh nhân nam vọng lệ triêm y.
Hoàng trần mãn diện trường tu chiến,
Bạch phát sinh đầu vị đắc quy.
Dịch nghĩa:
KHÚC CA NGOÀI BIÊN ẢI (KÌ 2) – LỆNH HỒ SỞ
Cỏ cây biên ải tiêu điều, nhạn bay đi
Chinh nhân ngóng về phía nam (hướng nhạn bay) lệ rơi ướt áo
Bụi vàng bám đầy mặt mà còn chinh chiến mãi
Tóc đã trắng trên đầu nhưng chưa được về.
Dịch thơ:
KHÚC CA NGOÀI BIÊN ẢI (KÌ 2) – LỆNH HỒ SỞ
Cây cỏ xơ xác nhạn bay đi
Lính ngóng về Nam lệ đầm đìa
Bụi vàng đầy mặt còn chinh chiến
Tóc trắng đầu mà chửa được về.
CAO THÍCH
Cao Thích 高適 (702-765) tự Đạt Phu 達夫, người Thương Châu (nay là tỉnh Hà Bắc). Năm Khai Nguyên thứ 22 (đời Đường Huyền Tông), ông theo giúp Tín An Vương lên biên tái đánh giặc Khiết Đan, sau đó lại đi du ngoạn ở vùng Hà Nam. Cho đến năm 40 tuổi, Cao Thích còn lận đận, sống đời áo vải lang thang đây đó. Sau đó được người cất nhắc, thi đỗ hữu đạo quan và được lên làm quan ở Trường An. Ông được giữ chức huyện uý. Tâm tính ông không hợp với chức này, thường làm thơ than thở. Sau đó thăng Tiết độ sứ ở Hà Tây. Khi An Lộc Sơn nổi loạn, ông tắt đường đến với Huyền Tông ở Hà Trì, dâng thư nói về nguyên nhân thất bại ở cửa ải Đồng Quan được làm Gián nghị đại phu. Sau có công đánh dẹp Vĩnh Vương Lý Lân, được Đường Túc Tông thăng tước hầu ở Bột Hải.
Ông đi nhiều, thông cảm với nỗi khổ của dân chúng …
塞上聽吹笛 - 高適
雪淨胡天牧馬還,
月明羌笛戍樓間。
借問梅花何處落,
風吹一夜滿關山。
Phiên âm:
TÁI THƯỢNG THÍNH XUY ĐỊCH – CAO THÍCH
Tuyết tịnh hồ thiên mục mã hoàn,
Nguyệt minh Khương địch thú lâu gian.
Tá vấn mai hoa hà xứ lạc?
Phong xuy nhất dạ mãn quan san.
Dịch thơ:
NGHE THỔI SÁO NGOÀI BIÊN ẢI – CAO THÍCH
Tuyết sạch trời Hồ ngựa về đàn
Sáo Khương trăng sáng ở Lâu Lan
Hoa mai thử hỏi nơi nào rụng?
Gió lộng một đêm khắp ải quan.
Bài này có dị bản như dưới đây với tiêu đề "Hoạ Vương Thất Ngọc Môn quan thính xuy địch" 和王七玉門關聽吹笛 (Hoạ thơ "Ngọc Môn quan nghe thổi sáo" của Vương Thất):
和王七玉門關聽吹笛
胡人吹笛戍樓間,
樓上蕭條海月閑。
借問落梅凡幾曲,
從風一夜滿關山。
Phiên âm:
HỌA VƯƠNG THẤT NGỌC MÔN QUAN NGHE THỔI SÁO
Hồ nhân xuy địch thú Lâu gian,
Lâu thượng tiêu điều hải nguyệt nhàn.
Tá vấn "Lạc mai" phàm kỷ khúc,
Tòng phong nhất dạ mãn quan san.
Dịch nghĩa:
HỌA THƠ NGỌC MÔN QUAN NGHE THỔI SÁO
CỦA VƯƠNG THẤT
Tiếng sáo người Hồ thổi ở Lâu Lan,
Trên lầu tiêu điều trăng trên biển tĩnh lặng.
Thử hỏi "Lạc mai" có mấy khúc,
Theo gió một đêm trải khắp quan ải.
Bản dịch thơ của Nguyễn Ngọc Kiên:
HỌA THƠ NGỌC MÔN QUAN NGHE THỔI SÁO
CỦA VƯƠNG THẤT
Người Hồ thổi sáo ở Lâu Lan
Biển lặng lầu xơ xác ánh trăng
Thử hỏi “Lạc mai” gồm mấy khúc
Theo gió một đêm khắp ải quan.
Nguyễn Ngọc Kiên
No comments:
Post a Comment