Nhà thơ Yến Lan lúc cộng tác với tạp chí TTTN
TRÊN CHUYẾN TÀU VỀ LẠI QUÊ NĂM ẤY
Lâm Bích Thủy
|
||
Không hiểu vì sao mà câu chuyện
này lại ám ảnh tôi mãi không dứt. Cha tôi kể cho chúng tôi không chỉ một lần.
Tôi hiểu, ý ông muốn thông qua chuyện của mình để dạy con về tinh thần dân
tộc, ý thức tự chủ, nhân cách và lòng tự trọng ở con người; bất kỳ ở đâu,
trong hoàn cảnh nào cũng cần bình tĩnh mà suy xét kỷ trước khi hành động một
vấn đề nào đó. Nhất là với những tình huống xấu nhất và khi đứng trước kẻ thù
“Biết mình, biết ta trăm trận trăm thắng”.
Thời gian dạy học ở Thanh Hóa được
hơn hai năm thì trường Mission đóng cửa; bởi Phát xit Nhật đảo chính, thế chân đế
quốc Pháp. Tình hình chiến sự, thế cờ đã thay đổi, mới có câu thơ “Trường
Nhật đóng tiêu pha đang dè dặt”. Nhật đến chiếm trường, Pháp te tua tháo
chạy. Nhà giáo – thi sĩ Xuân Khai cũng đang thu xếp về quê. Bọn Nhật nghe đồn
rằng có một thi sĩ dạy giỏi ở trường chuẩn bị về quê, không dạy ở đây nữa. Sĩ
quan Nhật đến, gặp ông tỏ ý muốn giữ ông lại để tiếp tục dạy theo nền giáo
dục của họ. Chúng khiêng đến tặng thầy hai hòm quà. Các thầy tưởng Nhật hối
lộ ông thứ gì quí giá, xì xào bàn tán, chỉ trỏ. Tất nhiên có người nghi
ngờ về sự hợp tác của thầy với Nhật. Thầy Xuân Khai không nhận, người sĩ
quan Nhật ra hiệu mở xem rồi hãy từ chối. Trước mặt các thầy,
và lính Nhật, thầy Xuân Khai mở cả hai thùng quà ra; đó là hai thùng phấn
viết bảng không bụi. Sau đó, bọn Nhật còn hứa hẹn khoảng lương hậu nếu thầy ở
lại trường. Nhưng ông nhất quyết trở về quê hương.
Tại sân ga cảnh tượng thật hỗn
độn, khó phân biệt; nào Tây, nào Nhật, nào dân ta; kẻ cầm súng đứng gác,
người qua lại mang, vác đủ thứ trông lôi thôi, lếch thếch; khiến nhà giáo mặt
đỏ bừng bừng vì căm giận hai kẻ ngoại xâm đang tranh nhau dày xéo mảnh đất mà
ông cha ta cất công khai phá. Thầy càng hận hơn khi chứng kiến cảnh chúng ức
hiếp dân Việt Nam quá đỗi, coi dân mình như súc vật. Buộc miệng thầy thốt lên
“nhục thật”
Khó khăn lắm thầy mua được tấm vé,
trầy trật mãi mới len chân vào được tới chỗ ngồi. Nhưng chỗ chưa kịp ấm đã
phải chuẩn bị rời đi vì tiếng loa phát thanh đang gào: “Chuyến tàu này dành
cho quân đội Pháp, bà con đợi chuyến sau”. Thế là dân ta, lại gồng, gánh,
mang, vác, ào ào, xô đẩy nhau, lèn, lách để ra khỏi toa - nơi mà mình vừa
chen chúc, xô đẩy để tới được! Âu cũng vì mẫu quốc Pháp bị thằng Nhật lùn
hung tợn hất cẳng. Thế là lính Pháp quýnh quáng ào lên chiếm chỗ, miệng không
ngớt xua dân ta như xua gà:
“Allez! Allez Annamie”.
Đấy! cả tên nòi giống tổ
tiên của ta cũng bị chúng miệt thị, khinh bỉ. Chúng không coi dân ta là
người!
Nhìn cảnh dân tinh bị xua
đuổi, nhà giáo liên tục thốt lên “Nhục thật!” Lòng tự trọng trỗi dậy trong
ông: “Là trí thức mình không thể để chúng đuổi như thế kia; mất thể diện con
người quá! Nếu chúng buộc ta phải rời toa, ta sẽ xuống một cách đàng hoàng!”
Các toa dưới, dân chưa kịp xuống,
lính Pháp đã tràn lên chèn cả lối đi, rất lộn xộn. Trong khi đó, toa nhà giáo
ngồi vẫn chưa có ai lên. Thầy lưỡng lự rồi đứng yên tại chỗ nghĩ cách đối
phó. Xong thầy đủng đỉnh đưa hai tay lên nắm quai valise trên giá, và khựng
lại; phóng tầm mắt qua cửa sổ toa quan sát, nghĩ: “nếu, bọn Pháp xông lên,
chúng thấy tay ta đang để ở quai valise, có nghĩa là đang trong
tình thế chuẩn bị rời toa; chúng sẽ không nói với ta “Allez! Allez Annamie” như đã đuổi người dân bản xứ. Khi ấy ta
đỉnh đạc, đàng hoàng bước xuống, ít ra khi ấy, trong mắt chúng, người trí
thức Việt Nam cũng là con người”
Nhưng, bỗng, từ phía sau,
một giọng nói rất lịch sự: - Bonsoir monsieur” = Xin chào ngài
Nhà giáo, lúc này, tay vẫn còn để ở quai valise, chỉ quay đầu sang bên
trái, xem ai vừa nói, và nói với ai mà nghe lễ phép thế. Thì ra, đó là sĩ
quan người Pháp. Tay phải anh ta cũng đang xách chiếc valise nhom, cở trung
bình, nhìn nhà giáo vẻ có lỗi. Còn nhà giáo ngỡ rằng mình nghe nhầm, lịch
sự hỏi lại:
- Pardon, Excusez-moi! Xin lỗi, Ngài làm ơn nhắc lại?
Người sĩ quan vẫn nét mặt và nụ cười để sẳn trên môi, tiếp:
- Excusez-moi! Puis-je m’asseoir
ici = Xin thứ lỗi, tôi có thể ngồi ở đây?
Nhanh như chớp, trong đầu nhà giáo
một phản xạ có điều kiện lập nên “vậy là rõ rồi, giờ đây mình là người có
quyền quyết định ngồi lại hay rời khỏi toa chứ không phải người sĩ quan Pháp.
Rồi, bằng động tác lịch sự và tự tin ông rút đôi tay xuống; độ lượng, quả
quyết:
- Oui! S’il vous plait monsier..
Sau hồi lâu, nhà giáo mới biết
mình mua vé của toa dành riêng cho sĩ quan và gia đình họ. Nhưng có một thắc
mắc khiến ông nghĩ mãi vẫn chưa ra: “Tại sao, suốt cuộc hành trình về Bình
Định, tất cả sĩ quan Pháp trên cùng toa đều tỏ ra kính nể và sợ ông; nhất là
các bà vợ của họ, ai cũng nhìn ông nể trọng, sợ nhỡ làm mếch lòng người trí
thức Việt Nam trong bộ complet trắng; mà chúng không dám gọi là Annamie kia”
Kể từ thời điểm đó cho đến mãi sau
này, ba tôi cố tìm câu trả lời về thái độ trọng vọng mà sĩ quan Pháp dành cho ông trong chuyến tàu về quê năm ấy;
song le, chưa có câu trả lời:
- Tại sao họ lại
rất lễ phép và nể trọng mình quá đỗi như vậy? Phải chăng do nhân cách, thái
độ đàng hoàng tự tin của mình? Hay vì bộ complet trắng, sang trọng từ chất
liệu vải Pháp mà cô Thỏ đã tặng?
Khi nhớ lại chuyện, chị em tôi suy
diễn rằng: “có thể vì nhân cách đàng hoàng, tự tin và rất trí thức của ba tôi
trong bộ complet trắng, sang trọng mà làm cho sĩ quan Pháp kính trọng. Hoặc
cũng có thể họ nhầm ông là trí thức người Nhật chăng?
Cảnh đợi tàu đã in sâu vào tâm trí
nhà thơ, mãi cho đến khi ra Bắc, nhân dịp trở lại Thanh Hóa, trong chuyến đi
thực tế, đã có thơ:
Từng tốp người đi
áo nâu bạc rách
Tiếng thở dài hơn
tầm mắt ngửng trông
Đường chưa qua đã
là bước đường cùng
Mà đất cũ không
còn nơi chốn ở
Ôi mảnh đất khi
xới lên từng thớ
Nhìn chưa phai máu
thịt của cha ông
Chân trời kia mắt
họ ngời trông
Bóng nắng, giọt
mưa đều còn xa lạ
Họ đứng đó nhớ
từng gốc rạ
Mà giữa lòng trống
trải một lưng cơm
Ngày mai,
Ngày mai trôi đến
chốn xa hơn
Trải năm tháng
chắc gì kiếm được…
Bữa cơm đợi tàu
gượng nhai, gượng nuốt
Tôi đứng lên dù
chưa ấm chỗ ngồi
Khi vé cầm tay
bỗng lại sợ tiếng còi
Xé thêm rách những
cuộc đời xơ xác./.
(Trích từ bài thơ "Bữa cơm đợi tàu” Thanh Hóa tháng 9/1959)
|
Lâm Bích Thủy
|
No comments:
Post a Comment