Tác giả Phạm Đức Nhì
GIẤC MƠ ANH LÁI ĐÒ
HAY
MỐI TÌNH VÔ VỌNG
Do không có phép ẩn dụ toàn bài nên tứ và ý bài thơ giống nhau, và thật đơn giản: tác giả tâm sự với người đọc về mối tình vô vọng của mình. Bài thơ chỉ có 14 câu, có thể đọc một mạch từ đầu đến cuối mà không bị khựng ở chỗ nào. Ngôn ngữ, hình ảnh (rất Nguyễn Bính), gần gũi, dân dã.
Bài thơ có thể chia làm 4 đoạn:
Năm xưa chở chiếc thuyền này
Cho cô sang bãi tước đay chiều chiều
Cho cô sang bãi tước đay chiều chiều
Tác giả giới thiệu hoàn cảnh mà từ đó tình yêu của chàng với cô gái đã bén rễ: được mỗi chiều – bằng chiếc thuyền nhỏ bé của mình – chở cô sang bãi tước đay.
Để tôi mơ mãi mơ nhiều
“Tước đay xe võng nhuộm điều ta đi
Tưng bừng vua mở khoa thi
Tôi đỗ quan trạng vinh quy về làng
Võng anh đi trước võng nàng
Cả hai chiếc võng cùng sang một đò”
“Tước đay xe võng nhuộm điều ta đi
Tưng bừng vua mở khoa thi
Tôi đỗ quan trạng vinh quy về làng
Võng anh đi trước võng nàng
Cả hai chiếc võng cùng sang một đò”
Tác giả không nói gì về tình yêu nhưng khi người đọc nghe chàng tâm sự là đã đưa cô vào trong cả giấc mơ “vinh quy bái tổ” của mình thì hiểu ngay rằng chàng đã yêu cô say đắm.
Đồn rằng: đám cưới cô to
Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu
Nhà gái ăn chín nghìn cau
Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn
Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu
Nhà gái ăn chín nghìn cau
Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn
Tình địch của anh lái đò quá giàu, có thể tổ chức một đám cưới linh đình để lấy cô về làm vợ. Không kể việc thuê chín chiếc đò để đón dâu, đem đến nhà gái chín nghìn cau làm lễ vật mà còn có thể nạp chín nghìn quan tiền (một số tiền rất lớn) cho khoản tiền cheo, tiền cưới.
Lang thang tôi dạm bán thuyền
Có người giả chín quan tiền, lại thôi
Có người giả chín quan tiền, lại thôi
Trong khi cả cơ nghiệp của anh lái đò – là chiếc thuyền – đem gạ bán thì người ta chỉ trả có chín quan tiền.
Nhận Định Nghệ Thuật
1.Không có hội chứng nhàm chán vần
Bài thơ chỉ có 14 câu gồm 4 đoạn nối kết nhau thành một truyện tình đơn phương, vô vọng; người đọc được cốt truyện lôi cuốn, chưa cảm thấy “ngán” cái giọng ầu ơ của thơ lục bát thì bài thơ đã hết.
2.Ngôn ngữ, hình ảnh bình dị dân dã
Nói đến thơ lục bát của Nguyễn Bính thì hình như bài nào ngôn ngữ, hình ảnh cũng rất bình dị, dân dã, dễ hiểu và dễ cảm. Người đọc yêu thơ thế nào cũng biết cái nét đặc biệt này của thi sĩ. Nhưng bình thơ Nguyễn Bính mà quên nhắc đến cái tài này (dù cứ phải lập đi, lập lại) thì lại là một thiếu sót. Đúng vậy, bài Giấc Mơ Anh Lái Đò ngôn ngữ, hình ảnh cũng rất bình dị, gần gũi với dân quê. Trong cả 14 câu thơ, 98 chữ, chữ nào cũng dễ hiểu, cũng rõ như ban ngày. Ngay cả cái hình ảnh vinh quy bái tổ “võng anh đi trước võng nàng” cũng rất gần gũi với người dân quê Việt Nam; nếu họ chưa tận mắt chứng kiến cái nghi thức có thật này thì cũng được nghe các bậc ông bà, cha mẹ kể đi, kể lại, xem như một tấm gương để khuyến khích con cháu cố công học tập, dùi mài kinh sử.
3.Dòng chảy của thơ lững lờ, chậm rãi.
Tác giả kể lại chuyện tình của mình một cách chậm rãi, có vẻ như bình thản (khác với cái vẻ háo hức của một kẻ đang yêu như trong Người Hàng Xóm). Chỉ đến hai câu cuối, bao nhiêu đau buồn tuyệt vọng bị dồn nén trong lòng mới được tuôn ra.
4.Ba trong 4 đoạn thành công với thủ pháp “bày tỏ, không kể lại” (show, not tell)
Ý định của tác giả là sử dụng thủ pháp “bày tỏ, không kể lại” trong cả 4 đoạn của bài thơ, nhưng theo tôi, ông chỉ thành công ở 3 đoạn.
a/ Năm xưa chở chiếc thuyền này
Cho cô sang bãi tước đay chiều chiều
Cho cô sang bãi tước đay chiều chiều
Đây chính là hoàn cảnh – cơ hội được tiếp xúc, gần gũi với cô gái – để mối tình đơn phương nẩy nở.
b/ Để tôi mơ mãi mơ nhiều
…………………………..
Cả hai chiếc võng cùng sang một đò.
…………………………..
Cả hai chiếc võng cùng sang một đò.
Tác giả chỉ nói về giấc mơ của anh lái đò – được cùng cô gái “vinh quy bái tổ” sau khi đỗ Trạng Nguyên – nhưng người đọc đã hiểu rằng anh đã yêu nàng say đắm.
c/ Đồn rằng: đám cưới cô to
Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu
Nhà gái ăn chín nghìn cau
Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn
Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu
Nhà gái ăn chín nghìn cau
Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn
Chữ vụng nhất và theo tôi, làm giảm giá trị của cả đoạn thơ là chữ “to”. Chính chữ “to” đã để lộ ý của tác giả trong đoạn này và đã làm thủ pháp “bày tỏ, không kể lại” thất bại. Ba câu kế tiếp chỉ làm rõ nghĩa thêm cho chữ “to” mà thôi. Nếu tác giả “dấu” được chữ “to” (thí dụ: Đồn rằng đám cưới của cô) thì 3 câu kế tiếp sẽ đóng vai trò cung cấp thông tin để từ đó người đọc tự nhận ra và tự kết luận “À! Đám cưới cô ấy to thật”. Đoạn thơ sẽ trở thành “bày tỏ, không kể lại” một cách tự nhiên, không gượng ép.
d/ Lang thang tôi dạm bán thuyền
Có người giả chín quan tiền, lại thôi.
Có người giả chín quan tiền, lại thôi.
Hai câu thơ chỉ nói đến việc dọ giá bán thuyền nhưng đã ngầm chứa nỗi đau đến xé tâm can của anh lái đò về mối tình vô vọng.
5.Hai câu kết tuyệt vời
Cái hay nhất của bài thơ chính là hai câu kết:
Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu
Nhà gái ăn chín nghìn cau
Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn
Lang thang tôi dạm bán thuyền
Có người giả chín quan tiền, lại thôi.
Nhà gái ăn chín nghìn cau
Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn
Lang thang tôi dạm bán thuyền
Có người giả chín quan tiền, lại thôi.
Tôi không tin là trong thực tế, con số chín (9) hoàn toàn phù hợp với số lượng những “thứ” mà ông nói đến trong bài thơ. Đúng là ông “phịa”; nhưng ông “phịa” khéo quá, “cao tay ấn” quá, nên người đọc, theo dòng cảm xúc của mình, đâu cần biết “có đúng là chín chiếc đò đón dâu, có đúng là chín nghìn cau hay chín nghìn tiền cheo, tiền cưới hay không, mà chỉ thấy cái khoảng cách giàu nghèo giữa anh lái đò và tình địch hiện ra một cách rõ ràng và cay đắng, để rồi cái cảm giác bàng hoàng đau đớn về mối tình vô vọng của anh lái đò đã như một dòng thác đổ xuống, tràn ngập tâm hồn. Ở đây thủ pháp “bày tỏ, không kể lại” được phối hợp với phép điệp ngữ (chín) một cách tài tình đã dẫn đến 2 câu kết thật tuyệt vời.
6.Hai chữ chừng đâu hơi gượng
Người đọc, nếu để ý, sẽ thấy hai chữ “chừng đâu” không thêm được gì trong nhiệm vụ chuyển tải ý của tác giả. Hình như chúng được đẩy vào vị trí ấy (một cách gượng gạo) chỉ với mục đích tạo vần cho câu 8 (của thể thơ lục bát). Tệ hại hơn, chúng còn làm cho con số “chín nghìn” của tiền cheo, tiền cưới có vẻ không chuẩn xác lắm (“chừng đâu” có nghĩa là có thể hơn, có thể kém) và từ đó khiến người đọc hơi có cảm giác “lấn cấn” khi so sánh với giá chiếc thuyền của anh lái đò, dù rằng con số này gấp cả nghìn lần con số kia. Ở những bài thơ “thường thường bậc trung” có lẽ chả ai để ý đến cái khuyết điểm nhỏ này, nhưng đây lại là bài thơ có tầm vóc, nằm trong số những bài thơ hay của thời tiền chiến, nên nếu có bị “chẻ sợi tóc làm tư” thì chắc bạn đọc yêu thơ cũng thông cảm cho người viết bài này.
Kết Luận:
Mỗi lần đọc lại hoặc ngâm nga bài Giấc Mơ Anh Lái Đò trong đầu tôi lại hiện ra một câu hỏi: “Tại sao một tài thơ hiếm có như Nguyễn Bính lại vô ý đến độ đưa chữ “to” rất “thô”, rất vô duyên ấy vào bài thơ?” Chữ “to” ấy đã làm đoạn thứ 3 mất đi danh hiệu “đoạn thơ bày tỏ không kể lại” (show, not tell) và đáng tiếc nhất là do đó, ông đã để vuột khỏi tay chiếc huy chương dành cho thi sĩ có Thi Phẩm Hoàn Toàn Show, Not Tell.
Dẫu sao Giấc Mơ Anh Lái Đò vẫn là một bài thơ rất hay. Đặc biệt là 2 câu kết tuyệt vời, mở cửa đổ cả một dòng thác cảm xúc làm ướt đẫm tâm hồn người đọc và đã lưu lại trong lòng họ rất lâu cái cảm giác đau buồn tê tái của anh lái đò. Tuy không có tuyệt chiêu “thi hóa thân thành họa” như Ông Đồ của Vũ đình Liên nhưng bài thơ có những ưu điểm khác (đặc biệt là đoạn kết) tạo thành một thi phẩm độc đáo, góp phần đưa Nguyễn Bính vào hàng những nhà thơ được yêu mến nhất trong thời kỳ Thơ Mới.
Thay cho phần chú thích:
Sau khi đọc bài viết, một người bạn nhắc tôi “Trong một số phiên bản khác, bài GMALĐ còn có thêm 8 câu nữa.” Điều này tôi cũng đã biết. Nhưng theo tôi, (và một số bạn thơ mà tôi có trao đổi về việc này) 8 câu thơ thêm vào (chưa biết có phải thật của Nguyễn Bính hay không) làm tứ thơ loãng và nhạt đi rất nhiều (giống như trường hợp 4 câu thêm vào đoạn cuối của Tống Biệt Hành). Hơn nữa, trong Thơ Việt Nam Thế Kỷ XX – Thơ Trữ Tình (trang 50) được nhà xuất bản Giáo Dục in năm 2004 thì bài thơ chỉ có 14 câu, ở cuối bài có ký hiệu […] mà tôi hiểu là “còn nữa nhưng xin ngừng ở đây”. Hồng Vân trên youtube, khi ngâm bài thơ này cũng chỉ ngâm có 14 câu.
Sau đây là nguyên văn bài thơ:
(8 câu thêm vào chữ màu xanh)
GIẤC MƠ ANH LÁI ĐÒ
Năm xưa chở chiếc thuyền này
Cho cô sang bãi tước đay chiều chiều
Để tôi mơ mãi, mơ nhiều:
“Tước đay se võng nhuộm điều ta đi
Tưng bừng vua mở khoa thi,
Tôi đỗ quan trạng vinh quy về làng
Võng anh đi trước võng nàng
Cả hai chiếc võng cùng sang một đò.”
Đồn rằng đám cưới cô to
Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu
Nhà gái ăn chín nghìn cau
Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn…
Lang thang tôi dạm bán thuyền
Có người giả chín quan tiền, lại thôi!
Buông sào cho nước sông trôi
Bãi đay thấp thoáng, tôi ngồi tôi mơ
Có người con gái đang tơ
Vẫy tay ý muốn sang nhờ bãi đay
Sao cô không gọi sáng ngày?
Giờ thuyền tôi đã chở đầy thuyền mơ
Con sông nó có hai bờ
Tôi chưa đỗ trạng, thôi cô lại nhà.
Cho cô sang bãi tước đay chiều chiều
Để tôi mơ mãi, mơ nhiều:
“Tước đay se võng nhuộm điều ta đi
Tưng bừng vua mở khoa thi,
Tôi đỗ quan trạng vinh quy về làng
Võng anh đi trước võng nàng
Cả hai chiếc võng cùng sang một đò.”
Đồn rằng đám cưới cô to
Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu
Nhà gái ăn chín nghìn cau
Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn…
Lang thang tôi dạm bán thuyền
Có người giả chín quan tiền, lại thôi!
Buông sào cho nước sông trôi
Bãi đay thấp thoáng, tôi ngồi tôi mơ
Có người con gái đang tơ
Vẫy tay ý muốn sang nhờ bãi đay
Sao cô không gọi sáng ngày?
Giờ thuyền tôi đã chở đầy thuyền mơ
Con sông nó có hai bờ
Tôi chưa đỗ trạng, thôi cô lại nhà.
PHẠM ĐỨC NHÌ
No comments:
Post a Comment