Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Sunday, September 21, 2014

PHÊ BÌNH CUỐN LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM CỦA LÊ MẠNH THÁT (KỲ II) - GS Minh Di


Lời giới thiệu của nhà thơ Kha Tiệm Ly:

 Kính gởi quý báo, 
Tôi hân hạnh đã đọc được những bài viết của GS Minh Di (Úc), và vô cùng thán phục kiến thức kinh người của GS. Nhờ đọc những bài viết nầy mà tôi mới thấy mình đã sai sót, quá yếu kém trong lãnh vực nghiên cứu văn học. Tuy nhiên, xin quý độc giả đọc với sự dè dặt.

Tôi trân trọng gởi đến quý báo bài đầu tiên, quý báo tùy nghi sử dụng.
                                                                         Kha Tiệm Ly


PHÊ BÌNH CUỐN LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM CỦA LÊ MẠNH THÁT (KỲ II) - GS Minh Di


Tác phẩm này Thế Thân soạn, luận quá trình từ Tiểu Thừa tiến qua Đại Thừa, căn bản phản ánh quan niệm lưu hành thời bấy giờ tại nước Ca Thấp Di La (nay là Kashmir) về thế giới của Bộ phái “Thuyết Nhất Thiết Hữu” của Tiểu Thừa, về nhân sinh và tu hành.
Thế Thân sống vào khoảng thế kỷ thứ IV hoặc thứ V, là 1 trong những người khai sáng Du Già Hành Phái của Đại Thừa, em của Vô Trước. Buổi đầu theo Tiểu Thừa, xuất gia theo Bộ phái “Thuyết Nhất Thuyết Hữu”. Theo truyền thuyết, ông tinh thông Giáo nghĩa không tin Đại Thừa, cho rằng Đại Thừa không phải do Phật nói (phi Phật sở thuyết).
Vô Trước ở nước Phú Lâu Sa Phú La sợ em mình viết Luận đả phá Đại Thừa, nên cho người tới nước A Thâu Đồ gọi ông về nước truyền dạy Giáo nghĩa Đại Thừa. Từ đó bỏ Tiểu Thừa theo anh nghiên tập Đại Thừa. Sau đó ông soạn rất nhiều bộ Luận giải thích Kinh điển Đại Thừa - như Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Đại Niết Bàn, Kinh Pháp Hoa, Kinh Bát Nhã, Kinh Duy Ma, Kinh Thắng Man. Ông lại viết sách, luận thuật rất tường tận về lý luận của phái Du Già.
Thế Thân viết rất nhiều, chủ yếu có:
- “Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận Thích”.
- “Biện Trung Biên Luận”.
- “Kim Cương Kinh Luận Thích”.
- “Thập Địa Kinh Luận”.
- “Tịnh Độ Luận”.
- “Nhị Thập Duy Thức Luận”.
- “Duy Thức Tam Thập Luận Tụng”.
- “Nhiếp Đại Thừa Luận Thích”.
- “Đại Thừa Thành Nghiệp Luận”.
- “Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận”.
- “Đại Thừa Ngũ Uẩn Luận”.
- “Phật Tính Luận”.
Tập Đại Đường Tây Vực Ký tự thuật việc Thế Thân theo Đại Thừa như sau:
- Vô Trước giảng đường cố cơ Tây bắc tứ thập dư lý chí cố Già lam, Bắc lâm Cắng Già hà, trung hữu chuyên Toát đổ ba cao bách dư xích, Thế Thân Bồ Tát sơ phát Đại Thừa tâm xứ.
Thế Thân Bồ Tát tự Bắc Ấn Độ chí ư thử dã, thời Vô Trước Bồ Tát mệnh kỳ môn nhân lệnh vãng nghinh hậu chí thử Già lam ngộ nhi hội kiến. Vô Trước đệ tử chỉ hộ dũ ngoại, dạ phân chi hậu tụng Thập Đa Kinh.
Thế Thân văn dĩ cảm ngộ truy hối thậm thâm diệu pháp, tích sở vị văn, phi báng chi diễn, nguyện phát ư thiệt. Thiệt vi tội bản kim nghi trừ đoạn. Tức chấp tiêm đao, dục tự đoạn thiệt. Nãi kiến Vô Trước trú lập cáo viết:
- Phù, Đại Thừa giáo giả, chí chân chi lý dã! Chư Phật sở tán, chúng Thánh du tông. Ngô dục hối nhĩ, nhĩ kim tự ngộ ngộ kỳ thời hĩ, hà thiện như chi! Chư Phật Thánh giáo đoạn thiệt phi hối! Tích dĩ thiệt hủy Đại Thừa, kim dĩ thiệt tán Đại Thừa, bổ quá tự tân, do vi thiện hĩ! Đổ khẩu tuyệt ngôn, kỳ lợi an tại?
Tác thị ngữ dĩ hốt bất phục kiến.
Thế Thân thừa mệnh toại bất đoạn thiệt, đán nghệ Vô Trước, tư thụ Đại Thừa.
Ư thị nghiên tinh đàm tư, chế Đại Thừa luận phàm bách dư Bộ, tịnh thịnh tuyên hành.
  /  Đại Đường Tây Vực Ký. Qu. V. A Du Đà quốc  /.

- Lúc Bồ Tát Thế Thân từ Bắc Ấn Độ tới đây thì Bồ Tát Vô Trước sai đệ tử tới Chùa này chờ để đón tiếp, gặp mặt nhau tại đây. Đệ tử của Vô Trước đứng bên ngoài cửa phòng (Thế Thân) sau lúc trời vào tối, tụng Thập Địa Kinh.
Thế Thân nghe xong cảm ngộ nghĩ lại mà hối, diệu pháp thậm thâm, xưa chưa hề nghe, cái tội phỉ báng (Đại Thừa) rồi từ cái lưỡi mà ra. Cái lưỡi là cái gốc của tội, bây giờ phải cắt bỏ nó đi. Tức thời lấy dao bén định cắt lưỡi thì thấy Vô Trước đứng đó nói rằng:
- Đại Thừa giáo là cái lý cực chân thực, là điều các Phật ca ngợi, các Thánh tôn sùng! Ta muốn dạy em, bây giờ em tự giác ngộ! Giác ngộ đúng lúc có gì tốt hơn! Thánh giáo của chư Phật, cắt lưỡi mà không hối hận. Trước kia dùng cái lưỡi hủy báng Đại Thừa bây giờ dùng cái lưỡi để tán dương Đại Thừa, sửa lầm lỗi, thay đổi thành con người mới cũng vẫn tốt! Ngậm miệng không nói, cái lợi rồi ở chỗ nào?
(Vô Trước) nói xong những lời này thì bỗng dưng không thấy người đâu nữa!
Thế Thân nghe theo, không cắt lưỡi nữa. Sáng sớm ngày hôm sau tới gặp Vô Trước thảo luận và thụ Giáo pháp Đại Thừa.
Do đó Thế Thân nghiên cứu tinh tường, suy nghĩ sâu xa, biên các Bộ Luận Đại Thừa cộng hơn trăm Bộ, tất cả đều được lưu hành rộng rãi.
Câu Xá.
Coi phần chú thích trên về “Đối Pháp” ở trên.
Khoa luận lý. Nguyên tác: Nhân minh.
Xin coi chú thích về điều mục “Ngôn ngữ, văn tự Phạn ngữ” ở trên].

Lê Mạnh Thát dịch đoạn Thích Nghĩa Tĩnh tự thuật từ Quảng Châu đi Ấn Độ.
 “Đại Đường Tây Vực cầu pháp cao tăng truyện quyển hạ ĐTK 2066 tờ 7c3-8b14 đã ghi cuộc gặp gỡ này khá chi tiết:  “Bấy giờ vào năm Hàm Hanh thứ ba (672), đang kiết hạ tại Dương Châu. Đầu mùa thu bỗng gặp sứ quân Cung Châu Phùng Hiếu Thiên bèn đi theo đến Quảng Châu, hẹn gặp với chủ thuyền Ba Tư để đi về phía Nam. Lại được sứ quân sai đến Cương Châu, lại làm đàn chủ cùng với em là sứ quân Hiếu Đẳng, sứ quân Hiếu Chẩn, quận quân họ Ninh, quận quân họ Bành, tập hợp nhân viên bà con, đều đến gặp để dâng biếu. Họ tranh nhau cho những tấm vải tốt, mỗi bỏ ra những món ăn lạ, để không thiếu hụt trên đường đi biển, lo sợ khó nhọc trên đất hiểm nguy, dốc lòng như ơn nghĩa đối với người thân, chiều theo lòng giúp kẻ cô độc, cùng làm lễ quy y, cùng có duyên với cảnh Phật. Sở dĩ được thành lễ gặp gỡ như vậy, ấy là nhờ sức của nhà họ Phùng. Lại phép tục Lĩnh Nam cùng làm khó lòng kẻ đi người ở. Nho sĩ ăn tại đất bắc đều mang nỗi hận biệt ly.
   Đến tháng 11 bèn bỏ Phiên Ngung, mặt hướng sao Dực sao Chẩn, nhắm vườn Nai mà xa mong, ngóng núi Gà mà mãi than (. . .). Chưa được hai tuần quả đến Phật Thệ. Trải ngừng sáu tháng, học dần ngôn ngữ. Vua nước đó biếu giúp đưa đến nước Mạc  La Du (nay đổi là Thất Lợi Phật Thệ, Srìboja), lại dừng hai tháng để chuyển hướng nước Yết Trà (Kaccha, tức nay là Khotaraja ở phía bắc đảo Sumatra, LMT). Đến tháng 12 giương buồm, lại ngồi thuyền vua dần nhắm Đông Ấn Độ. Từ Yết Trà đi lên hướng bắc hơn 10 ngày thì đến nước người lõa thể. Hướng về đông trông bờ khoảng một hai dặm, chỉ thấy cây dừa rừng cau xanh um khả ái.
Những người dân đó thấy thuyền đến thì tranh nhau cưỡi thuyền nhỏ hơn trăm chiếc, đều đem dừa chuối và những đồ dùng mây tre đến tìm đổi chác. Thứ họ thích nhất là sắt. Một miếng sắt bằng hai ngón tay thì đổi được 5 hoặc 10 trái dừa. Đàn ông thảy đều lõa thể. Đàn bà thì dùng một miếng lá để che thân. Kẻ buôn giỡn cho áo thì liền khoát tay không dùng. Tương truyền nước này là ở biên giới phía nam của Thục Xuyên. Nước này đã không sản xuất ra sắt, nhưng cũng ít vàng bạc. Họ chỉ ăn dừa và củ mài, không có nhiều thóc lúa. Vì thế, lô ca là quí nhất (nước này gọi sắt là lô ca). Da mặt người nước ày không đen, thân hình tầm cỡ trung bình. Khéo đan những rương mây tròn, mà những nơi khác không thể bì kịp. Nếu không cùng họ giao dịch thì liền bị bắn tên độc. Ai bị trúng thì không còn sống lại được.
     Từ đây lại nhắm hướng tây bắc mà đi thêm khoảng nửa tháng, bèn tới nước Đam Ma Lập Để, tức biên giới phía nam của Đông Ấn Độ, cách Mạc Ha Bồ Đề và Na Lan Đà có thể hơn 60 trạm dịch. Ở đây mới bắt đầu gặp thầy Đại Thừa Đăng. Lưu lại một năm để học tiếng Phạn và nghiên cứu các bộ luận thanh văn. Bèn cùng thầy Đăng cùng đi, lấy con đường chính tây. Mấy trăm thương nhân đi Trung Ấn Độ. Cách Mạc Ha Bồ Đề có 10 ngày, đường qua những núi đầm lớn nguy hiển khó thông, nhờ nhiều người, chứ không thể một mình vượt qua.
    Bấy giờ, Tịnh tôi mắc bịnh thời tiết, thân thể ốm mệt, tìm cách đi với nhà buôn, nhưng không thể kịp. Dù đã cố hết sức mình tìm đường đi lên, thì cứ 5 dặm phải trăm  lần nghỉ. Lúc ấy có khoảng 20 thầy ở chùa Na Lan Đà cùng Đăng thượng nhân đều đi lên phía trước. Chỉ còn một mình tôi đơn độc, bước lẻ loi qua cửa ải nguy hiểm. Ngày đã về chiều, cướp núi liền đến, cầm cung kêu lớn đến gặp bắt nạt. Tước lột y trên, rồi lấy y dưới, luống có dây lưng cũng bị cướp nốt. Đúng vào lúc đó, thật có thể nói mãi rời cuộc sống, không còn lòng để thăm hỏi. Xác tan trên đầu ngọn giáo, không thỏa được nguyện vọng của chính mình.
   Nước kia lại tương truyền rằng hễ bắt được người da trắng thì đem giết, sung vào việc tế trời. Khi nghĩ tới chuyện đó thì lòng lại nhớ quanh co. Bèn mới vào trong hố bùn, bôi khắp thân thể, lấy lá che mình, chống gậy mà đi từ từ. Ngày sắp tối hẳn mà chỗ ở thì còn xa. Đến đêm canh hai mới bắt kịp bạn bè, nghe Đăng thượng nhân kêu dài bên ngoài thôn. Khi đã gặp nhau, thượng nhân khiến trao cho một y, xuống hồ rửa mình, rồi mới vào thôn. Từ đó đi mấy ngày thì trước đến Na Lan Đà, đi kính lễ tháp Căn Bổn, rồi lên Kỳ Xà Quật chiêm bái nơi giữ áo ấm của đức Phật, sau đến chùa Đại Giác lễ bái chân dung Phật. Vải quyến tốt do đạo tục vùng Sơn Đông tặng đều đem làm áo cà sa đúng thân đức Phật Như Lai, tự mình đem lên mặc cho Ngài.
   Huyền luật sư của Bộc Châu gửi kèm theo bảo cái bằng lụa mỏng mấy vạn để đem dâng lên. Thiền sư An Đạo của Tào Châu gửi lễ bái đến tượng Bồ Đề. Tịnh tôi cũng vì vậy mà làm lễ xong. Lúc ấy, năm vóc gieo xuống đất, một lòng tưởng nhớ kiền thành, trước vì bốn ơn ở Đông Hạ, rộng ra tới cả pháp giới hàm thức, nguyện xin hội đầu Long Hoa, gặp được đức Từ Thị, cùng hợp chân tôn, chứng được trí vô sanh. Tiếp theo bèn lễ khắp thánh tích, qua phương trượng mà tới Câu Thi, chỗ nào cũng đều chí thành. Vào vườn Nai mà vượt núi Gà, ở chùa Na Lan Đà 10 năm, mới bắt đầu trở gót, nói về Đam Ma Lập Để. Khi chưa đến, thì gặp giặc cướp lớn, chỉ khỏi được họa dao đâm, mà giữ được thân hôm sớm. Từ đó, lên thuyền qua nước Yết Trà. Ba tạng Phạn Bản mang theo khoảng hơn 50 vạn tụng, dịch ra tiếng Hán có thể thành một ngàn quyển. Bèn tạm ở lại Phật Thệ”.
         
    Đọc những ghi chép vừa dẫn của Đại Đường Tây Vức cầu pháp cao tăng truyện ta thấy Nghĩa Tịnh đã gặp Đại Thừa Đăng tại Đam Ma Lập Để, sau khi đã rời vùng Yết Trà vào tháng 12 của năm Hàm Hanh thứ 3 (674) và đi thêm khoảng một tháng nữa”.
(LSPGVN2. từ trang 179 đến 183).

Những cái sai của Lê Mạnh Thát ở đoạn trên tôi đánh chữ đỏ và gạch dưới.
Sau đây tôi nói rõ từng cái sai một:
1). Năm Hàm Hanh thứ 3.
Đúng phải là năm Hàm Hanh thứ 2.
+ Trong Tập “Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện Hiệu Chú”, chú thích câu “Hàm Hanh nhị niên” (Chú thích 10), trong đoạn dẫn trên, Vương Bang Duy viết:
(10). Hàm Hanh nhị niên. Trừ Túc Bản ngoại, các Bản nguyên câu tác “Hàm Hanh tam niên”. Đản <Ký Qui Truyện> Quyển IV vân: “Chí tam thập thất, phương toại sở nguyện”. Hựu vân: “Toại dĩ Hàm Hanh nhị niên thập nhất nguyệt phụ bạch Quảng Châu, cử phàm Nam hải.
(Đại 54 / 232c, 233b) <Trung tông Thánh Giáo Tự>: “Tam thập hữu thất, phương toại nhã hoài, dĩ Hàm Hanh nhị niên hành chí Quảng Châu”.
(Chiêu 3 / 1421c) <Nghĩa Tĩnh Tháp Minh>: “Dĩ Hàm Hanh nhị niên, phát tự toàn Tề, đạt vu Quảng Phủ”
(Đại 55 / 871c) <Khai Nguyên Lục> Quyển IX, <Tục Cổ Kim Dịch Kinh Đồ Ký>, <Trinh Nguyên Lục> Quyển XIII, <Tống Cao Tăng Truyện> Quyển I sở ký đồng.
Nghĩa Tĩnh đích sinh tốt niên suy toán, tham hạch dĩ thượng các gia ký tái, khả xác địnhtam niên” thực vi “nhị niên” chi ngộ, kim cải chính chi.
Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện Hiệu Chú. Qu. Hạ. Nghĩa Tĩnh tự thuật  /.
- Năm thứ 2 Niên hiệu Hàm Hanh. Trừ Túc Bản, các Bản vốn đều ghi “Hàm Hanh tam niên”. Nhưng <Ký Qui Truyện> Quyển IV nói: “Tới 37 tuổi mới đạt ước nguyện”. Lại nói: “Sau cùng tháng 11 năm thứ 2 Niên hiệu Hàm Hanh theo thuyền buôn tới Quảng Châu, ra khơi Nam hải.
+ (Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh Qu.54, tr.232c,233b) <Trung tông Thánh Giáo Tự>: “37 tuổi mới đạt được hoài vọng cao đẹp, để năm thứ 2 Niên hiệu Hàm Hanh đến Quảng Châu”.
+ (Chiêu Hòa Pháp Bảo Tổng Mục Lục Qu.3, tr.1421c) <Nghĩa Tĩnh Tháp Minh>: “Năm thứ 2 Niên hiệu Hàm Hanh, xuất phát từ đất Tề đi Phủ Quảng Châu.
+ (Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh Qu.55, tr.871c). Ghi chép (về thời điểm này) của các Tập <Khai Nguyên Lục> Quyển IX, <Tục Cổ Kim Dịch Kinh Đồ Ký>, <Trinh Nguyên Lục> Quyển XIII, <Tống Cao Tăng Truyện> Quyển I đều giống (như trên).
Lấy năm sinh năm tử của Nghĩa Tĩnh mà suy tính, tham khảo đối chiếu những ghi chép của các nhà dẫn trên đây thì có thể xác địnhnăm thứ 3” quả thực là lầm lẫn từ “năm thứ 2”, nay sửa cho đúng lại”.

Những trưng dẫn trong phần chú thích trên đây Vương Bang Duy viết liền nhau, ở đây tôi sắp xếp lại, mỗi tác phẩm trưng dẫn tôi xuống hàng cho dễ thấy.

2). “Hiếu Đẳng”.
Chữ “Đẳng” đúng phải là “Đản”.
Chữ “Đản” này tức chữ “đản’ nghĩa là “sanh ra”, như nói “Phật đản sanh”.
3). “...... lại làm đàn chủ.”.
Lê Mạnh Thát dịch câu này hàm hồ:
Ai làm đàn chủ? Thích Nghĩa Tĩnh, hay ông Sứ quân Phùng HiếuThiên?
4). “...... tập hợp nhân viên bà con..
Nguyên tác: “...... hợp môn quyến thuộc”.
Nghĩa là: “...... tất cả bà con trong giòng họ”.
Chữ “Hợp” ở đây có nghĩa là “tất cả, đầy đủ”, như nói:
-Hợp quốc” (cả nước), “hợp gia” (cả nhà) ......
Chữ “Môn” ở đây có nghĩa là “Gia tộc, gia đình”.
Lê Mạnh Thát dịch là “tập hợp bà con nhân viên” thì đúng là không rành Hán văn!
Kế đến, trong dịch văn có danh xưng “Quận quân” Lê Mạnh Thát đã không dịch. Đây là danh xưng chuyên môn nếu không dịch thì người đọc không chuyên môn không hiểu là cái gì? 
Cao Thừa (? - ?) thời Bắc Tống (960 - 1127) viết trong “Sự Vật Kỷ Nguyên”:
~ Đường chế: Tứ phẩm thê vi Quận quân, Ngũ phẩm vi Huyện quân - kỳ mẫu ấp hiệu giai gia Thái quân phong, xưng Thái quân”.
    /  Sự Vật Kỷ Nguyên. Qu.I. Tân Ngự Mệnh Phụ Bộ. 4. Thái quân  /.
~ Định chế Đường triều: Vợ của quan chức trật Tứ phẩm được gọi là Quận quân, vợ các quan chức thuộc trật Ngũ phẩm thì được gọi Huyện quân - trong danh hiệu của các phần đất Triều đình ban cho mẹ của các quan chức nói trên đều có thêm các tiếng Thái quân phong, do đó gọi mẹ của các quan chức này là Thái quân”.
5). Tranh nhau cho những tấm vải tốt.
Nguyên tác: “Tranh trừu thượng hối”.
Cứ như dịch văn của Lê Mạnh Thát thì ông ta dịch chữ “Trừu” là “vải tốt”.
Tôi không rõ Lê Mạnh Thát lấy cái nghĩa này từ đâu? Vì trong tất cả Từ thư Trung Hoa chữ “Trừu” không có nghĩa nào là “vải tốt” như Lê Mạnh Thát dịch hết!
Chữ Trừu có các nghĩa: Lấy ra, rút ra, đưa ra......
Câu “tranh trừu thượng hối” có nghĩa là “tranh nhau lấy tiền bạc của cải đưa lên tặng”.
Chữ “Hối” có nghĩa là “tài vật” (tiền bạc, của cải), có nghĩa là “tặng biếu tài vật”.
6). “...... để không thiếu hụt trên đường đi biển.”.
Nguyên tác: “Thứ vô phạp ư hải đồ”.
Ở đây chữ “thứ” có nghĩa là “mong, hi vọng”, Lê Mạnh Thát dịch là “để” thì không được chính xác lắm! Chữ “Thứ” này là chữ “Thứ” có nghĩa là “dân chúng”, như nói “thứ dân”.
7). “Dốc lòng như ơn nghĩa đối với người thân, chiều theo lòng giúp kẻ cô độc.”.
Nguyên tác: “Đốc như thân chi huệ, thuận Cấp Cô chi tâm”.
Chữ “huệ” ở đây dịch là ơn nghĩa thì không xác đáng, dịch là “tặng, biếu” phải hơn!
Lê Mạnh Thát không hiểu là 2 chữ “Cấp Cô” ở đây tức “Cấp Cô Độc”, một Đại thần của vua Thắng Quân. Cấp Cô Độc cực giàu, ông là người cúng dường khu rừng Thệ Đa để Phật Thích Ca lập Đạo tràng. Cấp Cô Độc thường giúp đỡ kẻ nghèo khổ thiếu thốn nên thời đó người ta gọi ông là Thiện Thí Trưởng Giả.
Về Cấp Cô Độc, Huyền Trang viết trong Đại Đường Tây Vực Ký như sau:
Thiện Thí trưởng giả nhân nhi thông mẫn, tích nhi năng tán, chửng phạp tế bần, ai cô tuất lão, thời mỹ kỳ đức, hiệu Cấp Cô Độc yên! Văn Phật công đức, thâm sinh tôn kính nguyện kiến Tinh xá thỉnh Phật giáng lâm.
Thế Tôn mệnh Xá Lợi Tử tùy chiêm quĩ yên! Duy thái tử Thệ Đa viên địa sảng khải tầm nghệ thái tử cụ dĩ tình cáo. Thái tử hí ngôn:
- Kim biến nãi mại!
Thiện Thí văn chi, tâm hạt như dã, tức xuất tàng kim, tùy ngôn bố địa; hữu thiểu vị mãn thái tử thỉnh lưu viết:
- Phật thành lương điền, nghi thực thiện chủng.
Tức ư không địa kiến lập Tinh xá, Thế Tôn tức chi cáo A Nan viết:
- Viên địa Thiện Thí sở mãi, lâm thụ Thệ Đa sở thí, nhị nhân đồng tâm thức sùng công nghiệp, tự kim dĩ khứ ưng vị thử địa vi Thệ Đa Lâm Cấp Cô Độc Viên!
 Đại Đường Tây Vực Ký. Qu.VI. Thất La Phạt Tất Để Quốc  /.
Trưởng giả Thiện Thí là người nhân từ, trí huệ, mẫn tiệp, gom góp được nhiều tiền của nhưng cũng biết bỏ ra bố thí, cứu người thiếu thốn, giúp kẻ nghèo khổ, thương những trẻ không cha, không mẹ, xót người già cả, và cũng vì khâm phục cái đức của ông mà người đương thời gọi ông là Cấp Cô Độc! Nghe nói về công đức của Phật ông vô cùng tôn kính, nguyện lập Tinh xá để thỉnh Phật tới. Thế Tôn sai Xá Lợi Tử theo Cấp Cô Độc đi các nơi xem xét đất đai! (Rốt cục) chỉ có khu đất vườn của thái tử Thệ Đa là cao ráo.  
Sau đó 2 người tới gặp thái tử, nói rõ ý nguyện, thái tử nói chơi rằng:
- Nếu các ông trải vàng khắp hết mảnh đất đó thì ta sẽ bán cho!
Nghe vậy, Thiện Thí, với lòng rộng rãi, tức thời đem hết vàng trong nhà ra, theo lời của thái tử Thệ Đa mà trải kín khắp mảnh đất đó. (Trải đến lúc cuối) có một khoảnh đất nhỏ chưa trải kín, thái tử nói là để chừa đó, nói rằng:
- Phật đúng là ruộng tốt, phải gieo trồng hột giống thiện.
Liền cho xây dựng Tinh xá tại khoảng đất trống đó. Thế Tôn liền nói với A Nan:
- Đất vườn là của Thiện Thí mua, cây rừng là của Thệ Đa cho, 2 người đồng tâm, để làm cao công trạng và sự nghiệp. Từ đây trở đi nên gọi đất này là Vườn Cấp Cô Độc Rừng Thệ Đa.
8). “... phép tục Lĩnh Nam cùng làm khó lòng kẻ đi người ở. Nho sĩ ăn tại đất bắc đều mang nỗi hận biệt ly.”.
Nguyên tác:Lãnh Nam pháp tục cộng cảnh khứ lưu chi tâm; Bắc thổ anh nho câu hoài sinh biệt chi hận.”.
- “ (Bản chất) của người Tăng, kẻ tục ở vùng Lãnh Nam rồi đều nghẹn ngào trước cảnh kẻ ở người đi; (bản chất) bậc trí thức tài cao phương Bắc ai cũng đều buồn thương cho cảnh chia lìa giữa người sống.”.
+ Lê Mạnh Thát không hiểu 2 chữ “Pháp tục” ở đây chỉ 2 giới Tăngtục.
+ Chữ “Cảnh” trong đoạn trên có nghĩa “ăn mà bị nghẹn xương ở cổ”.
Chữ này bên trái là bộ “Ngư” (Con cá), bên phải là chữ “Canh”, nghĩa là “Sửa đổi”.
Ngoài ra chữ “Canh” còn âm đọc nữa là “Cánh”, nghĩa là “Lại, nữa. Càng”
+ 2 chữ “khứ lưu”: Khứđi, ở đây chỉ người đi; lưu, ở đây chỉ người ở lại.
+ “Nho sĩ ăn tại đất bắc”. Tôi không rõ Lê Mạnh Thát dịch từ đâu ra chữ “ăn”?
Chưa nói “ăn tại đất bắc” là ăn làm sao? Thiệt là tối mò!
Tóm lại, đối chiếu dịch văn của tôi thì thấy Lê Mạnh Thát dịch rất sai lạc, ngây ngô!
9). “Vườn Nai. Núi Gà.”.
Nguyên tác là “Lộc Viên. Kê Phong”.
Đây là những tên riêng, dịch ra thì rất ngớ ngẩn và ngô nghê, kiểu “đỉnh cao trí tuệ”!!!
10). (. . .).
Trong ngoặc đơn có 3 cái chấm này là một đoạn nguyên tác Lê Mạnh Thát không dịch!  Đoạn này là: “Vu thời quảng mạc sơ phiêu...... tới câu “như vân chi lãng thao thiên”.
Tôi nghĩ Lê Mạnh Thát không hiểu đoạn này nên không dịch. (Coi phần dịch ở sau).
11). “Chưa được hai tuần......”.
Nguyên tác: “Vị cách lưỡng tuần......”.
- Chưa tới 20 ngày......”.
Thời cổ, Lịch pháp Trung Hoa phân 1 tháng làm 3 khoảng, mỗi khoảng 10 ngày, gọi là Tuần - như ta thường nghe “thượng tuần”, “trung tuần”, “hạ tuần”.
Trong Lịch pháp phương Tây, 1 tuần chỉ có 7 ngày. Cho nên, dịch mà không chú thích như Lê Mạnh Thát có thể khiến 1 số người đọc hiểu lầm chữ “Tuần” ở đây là 7 ngày!
12). “Trải ngừng sáu tháng.”.
Nguyên tác: “Kinh đình lục nguyệt”.
Lê Mạnh Thát dịch từng chữ một rất ngô nghê, trong khi Nghĩa Tĩnh rất giản dị nói rằng mình “ở lại đây (Phật Thệ) 6 tháng”.
13). “...Vua nước đó biếu giúp đưa đến nước Mạc La Du.”.
Nguyên tác: “Vương tặng chi trì tống vãng Mạt La Du quốc”.
- “Vua (xứ này) tặng cho tiền bạc, vật dụng đưa tiễn tới nước Mạt La Du”.
Vì Lê Mạnh Thát chỉ biết dịch từng chữ một cho nên rất hàm hồ!
Nói “biếu giúp”, nhưng “biếu giúp” cái gì ở đây?
Kế đến, chữ đầu của tên nước là “Mạt” (Mạ+t), không phải “Mạc” (Mạ+c).
14). “...thuyền nhỏ hơn trăm chiếc.”.
Nguyên tác: “tiểu đỉnh hữu doanh bách số”.
- “Thuyền nhỏ nhẹ mà nhanh có đến trăm chiếc”.
Số lượng ở đây bất định, Nghĩa Tĩnh chỉ phỏng chừng mà thôi! Chữ “doanh” trong câu nghĩa là “đầy”. Giải rõ ra, ý nói là nhiều lắm cũng đầy, cũng tới 100 chiếc thuyền.
15). “...biên giới phía nam của Thục Xuyên.”.
Nguyên tác: “Thục Xuyên Tây nam giới”.
Lê Mạnh Thát dịch thiếu chữ “Tây”.
16). “Lưu lại một năm để học tiếng Phạn và nghiên cứu các bộ luận thanh văn.”.
Nguyên tác: “Lưu trú nhất tái, học Phạm ngữ, tập Thanh luận”.
- “Ở lại đây 1 năm, học tiếng Phạn, tập Ngữ pháp (tiếng Phạn)”.
Lê Mạnh Thát dịch mà không suy nghĩ gì hết, cứ dịch càn tới. Thử hỏi, chỉ với một năm học nói đã xong chưa mà nghiên cứu tới những Bộ Luận Phật giáo - là những trứ tác của những Luận sư thuộc hàng Thanh Văn Thừa đã ngộ Tứ Đế (Khổ. Tập. Diệt. Đạo)?
Lê Mạnh Thát vốn không hiểu rằng tiếng “thanh luận” trong câu dẫn trên đây, cũng như tiếng “Thanh minh” ở một đoạn trước, chỉ ngôn ngữ học.
Hơn nữa, cứ coi nguyên tác thì thấy không có chữ nào có nghĩa là “nghiên cứu” cả!
17). “...tìm cách đi với nhà buôn, nhưng không thể kịp. Dù đã cố hết sức mình tìm đường đi lên.”.
Nguyên tác: ... cầu chẩn thương đồ, tuyền khốn bất năng cập, tuy khả lệ kỉ cầu tiến ngũ lý chung tu bách tức.
- “...xin đi theo đoàn thương buôn, (nhưng) khốn đốn luôn không theo kịp đoàn, tuy tự khích lệ là phải cố vượt lên (cho kịp) nhưng cứ đi 5 dặm thì nghỉ tới cả trăm lần”. 
Chữ chẩn trong nguyên tác có nghĩa là “cầu xin”, không có nghĩa là “tìm cách”.
Câu tìm cách đi với nhà buôn, nhưng không thể kịphàm hồ. Không thể kịp cái gì?
Câu cầu tiếnLê Mạnh Thát dịch là tìm đường đi lên lại cũng hàm hồ nữa! 
Tiếp đến, Lê Mạnh Thát dịch thiếu câu tuyền khốn (“khốn đốn luôn”), cũng không dịch câu khả lệ kỉ (“tự khích lệ”).
18). “... mãi rời cuộc sống, không còn lòng để thăm hỏi.
Nguyên tác: “Trường từ nhân đại, vô hài lễ yết chi tâm”.
- “Rời bỏ cõi người thì rồi không hợp với tâm nguyện đến bái yết đất Phật”.
Tiếng “trường từ” nghĩa là “sự từ biệt lâu dài”, ý chỉ “sự chết”.
Chữ “Hài” trong câu trên có nghĩa là “hòa hợp”.
Câu này nói rằng nếu chết đi thì điều này rồi không hợp với tâm nguyện của mình là đến xứ Phật cầu Pháp, chiêm bái các di tích của Phật.
Câu kế tiếp diễn rõ hơn ý trên đây:
-thể tán phong đoan bất toại bản cầu chi vọng!”.
- “thân tan dưới đầu gươm dáo thì không đạt thành nguyện vọng của mình!”.  
Lê Mạnh Thát dịch không còn lòng để thăm hỏi thì đã sai, lại mơ hồ! Thăm hỏi ai?
19). “... lòng lại nhớ quanh co.”.
Nguyên tác:Ký tư thử thuyết cánh chẩn vu hoài”.
- “Đã nghĩ tới truyền thuyết này thì càng đau đớn trong lòng”.
Trong Hoa ngữ có từ ngữ “chẩn hoài”, nghĩa là “đau lòng nghĩ nhớ” (thống niệm).
Khuất Nguyên (343 - 299 tr. Cn) có câu:
                        Xuất Quốc môn nhi chẩn hoài hề!
   Sở Từ. Cửu Chương. Ai Dĩnh  /.
                        Bỏ Nước đi mà đau lòng kìa!                                 
Vương Dật (? - ?) thời Đông Hán (25 - 220) chú thích:
-Chẩn, thống dã; hoài, tư dã”.  
-Chẩn, là đau đớn; hoài là suy nghĩ”.
Có thể thấy, “nhớ quanh co” thì khác xa với “nhớ mà lòng đau đớn”!
20). “... kêu dài”.
Nguyên tác: “Trường khiếu”.
- “Lớn tiếng kêu”.
Lê Mạnh Thát dịch từng chữ một là kêu dài”. “Kêu dài” là kêu ra làm sao?
Tiếng Việt có các tiếng “than dài”, “thở dài”, không có “kêu dài”.
Trường nghĩa là “dài”, là “xa”, do đó nếu dịch câu trường khiếulà “lớn tiếng kêu” hoặc là “cất tiếng kêu lớn” thì hợp tinh thần tiếng Việt hơn. 
Lớn tiếng kêu thì âm thanh lan xa cho người ngoài xa nghe.
21). “... rồi lên Kỳ Xà Quật chiêm bái nơi giữ áo ấm của đức Phật.”.
Nguyên tác: “...... thướng Kỳ Xà Quật kiến điệp y xứ”.
- “... lên Kỳ Xà Quật thăm nơi có [dấu tích] áo [cà sa bằng vải] bạch điệp của Phật”.
(Kỳ Xà Quật tức núi Linh Tựu, hay còn đọc là Linh Thứu. Coi phần tiếp sau phần này).  
Đối chiếu câu dịch chính xác tôi dịch trên và câu dịch sai của Lê Mạnh Thát có thể thấy Lê Mạnh Thát: 
1/. Không biết nguyên tắc giả tá (còn gọi là thông tá) trong Văn tự học Trung Hoa.
2/. Không thông điển tích Phật giáo.
Tôi lần lượt chứng minh từng điểm một sau đây.

1). Về văn tự học.
Chữ “Điệp” ở đây có các nghĩa “Tầng, lớp. Lập lại. Sợ hãi”.
Nhưng ở đây, trong Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện chữ “điệp” này chỉ thứ vải dệt từ sợi bông cây gòn (mộc miên) ở các xứ Tây vực.
Thứ vải dệt từ sợi bông cây mộc miên sắc trắng, chất mịn do đó mà được mệnh danh là “bạch điệp”.  
Cà sa của Phật được may bằng thứ vải bạch điệp này do đó Nghĩa Tĩnh nói “điệp y”.   
Chữ này vốn viết với Bộ “Mao” (Lông) ở bên phải chữ “điệp” kể trên, nhưng nguyên tác ở đây viết không có Bộ “Mao”, theo lối giả tá thường thấy trong văn chương cổ điển.
Nói rõ hơn là ở đây Lê Mạnh Thát không biết là 2 chữ “Điệp”, một chữ có Bộ “Mao”, và một chữ không có Bộ “Mao”, chỉ là một, tức mượn chữ này để chỉ chữ kia! Cho nên đã hiểu theo nghĩa “tầng, lớp”, để từ đó suy diễn là “lớp áo”, là “áo ấm”.

2). Về điển tích Phật giáo.
Trong “Tây Vực Ký” có khá nhiều đoạn nói đến thứ áo may bằng vải “bạch điệp” này ở một số nước vùng Tây vực .
Tổ Huyền Trang ghi lại trong “Đại Đường Tây Vực Ký”:
-Cung Thành Đông bắc hành thập tứ, ngũ lý, chí Cật Lật Đà La Củ Trá Sơn (Đường ngôn Tựu Phong, dịch vị Tựu Đài. Cựu viết Kỳ Xà Qut, ngoa dã!)......
Kì sơn đỉnh tắc Đông tây trường, Nam bắc hiệp. Lâm nhai Tây thùy hữu chuyên tinh xá cao quảng kỳ chế, Đông tịch kỳ hộ, Như Lai tại tích đa cư thuyết Pháp......
Tinh xá Đông bắc thạch giản trung hữu đại bàn thạch, thị Như Lai sái ca sa chi xứ, y văn minh triệt, kiểu như điêu khắc”.
 Đại Đường Tây Vực Ký. Qu. IX. Ma Kiệt Đề Quốc. Hạ  /.
- “Từ Cung Thành đi về hướng Đông bắc 14, 15 dặm thì tới núi Cật Lật Đà La Củ Trá (Ngôn ngữ Đường gọi là Tựu Phong, cũng gọi Tựu Đài. Xưa gọi là Kỳ Xà Qut, là gọi sai)......
Đỉnh núi chiều Đông Tây dài, Nam Bắc hẹp. Sát bên ghềnh núi phía Tây có một tinh xá bằng gạch, cao rộng, kiến trúc đặc dị, day mặt về hướng Đông, đức Như Lai thuở xưa  phần nhiều thuyết Pháp tại đây......
Ở khe núi đá mé Đông bắc tinh xá có tảng đá lớn, là nơi Như Lai phơi áo cà sa, dấu áo lưu lại trên mặt đá thật rõ, rành rạnh như điêu khắc”.

Ngoài ra, cũng sách dẫn trên, ở một đoạn nữa, cho biết:
- “Như Lai Tăng già đê Ca sa, tế điệp sở tác, kỳ sắc hoàng xích, trí bảo hàm trung, tuế nguyệt ký viễn, vi hữu tổn hoại”.
  Đại Đường Tây Vực Ký. Qu. II. Na Kiệt La Hạt Quốc  /.
- “Cái áo Tăng già đê của Như Lai dệt với vải (bạch) điệp sợi mịn, có sắc vàng đỏ, để  trong hộp quí, trải năm tháng xa xôi áo đã có chút ít hư hoại”.

Kinh Hoa Nghiêm so sánh Tâm Bồ đề thanh tịnh trắng sạch như sợi vải Bạch điệp:
- Bồ đề tâm giả như Bạch điệp tuyến, tòng bản dĩ lai tính thanh tịnh cố!
   /  Hoa Nghiêm Kinh. Nhập Pháp Giới. XXXIX  /.
- Bồ đề tâm như sợi vải Bạch điệp, vì từ nào đến giờ tánh vốn thanh tịnh!

22). “... hội đầu Long Hoa..... đều hợp chân tôn.”.
Đúng phải là “3 Hội Long Hoa”, không phải chỉ Hội đầu tiên.
Chân tông ở đây tức chỉ cái “thực lý của Chân như Pháp tướng”.

23). “... qua phương trượng mà tới Câu Thi.”.
Nguyên tác: “quá Phương Trượng nhi giới Câu Thi”.
Có thể thấy ngay dịch văn dẫn trên của Lê Mạnh Thát rất hàm hồ!
Cứ như nguyên tác thì Phương TrượngCâu Thi chỉ địa danh.
Điều mà ai cũng rõ là trong chùa, chỗ cư trú của Sư trụ trì được gọi là Phương trượng
Dịch như Lê Mạnh Thát người đọc sẽ thắc mắc:
1/. Phương trượng của Chùa nào đây? Chùa ở đâu?
2/. Câu Thi là địa danh, nhưng là tên 1 địa phương, hay tên Quốc gia?

Về danh xưng “Phương trượng” chúng ta hãy đọc một đoạn trong bộ loại thư Phật giáo nổi tiếng là “Pháp Uyển Chu Lâm” của Thích Đạo Thế (? - ?) đời Đường:
- “Phệ Xá Li quốc, thuộc Trung Ấn Độ (Cựu vân Tỳ Xá Li quốc)......
Cung Thành chu ngũ lý. Cung Tây bắc lục lý hữu tự tháp, thị thuyết Duy Ma Kinh xứ.
Tự Đông bắc tứ lý hứa hữu Tháp, thị Duy Ma cố trạch cơ, thương đa linh thần! Kỳ điệp chuyên, truyền vân tích thạch, tức thị thuyết Pháp hiện tật xứ dã.
Vu Đại Đường Hiển Khánh niên trung sắc sứ Vệ Trưởng sử Vương Huyền Sách nhân hướng Ấn Độ, quá Tĩnh Danh trạch, dĩ hốt lượng cơ, chỉ hữu thập hốt, cố hiệu Phương Trượng chi Thất dã!
 /  Pháp Uyển Chu Lâm. Qu.XXIX. Cảm Thông thiên. Thánh tích Bộ đệ Nhị  /.
- “Nước Phệ Xá Li, thuộc miền Trung Ấn Độ (Thời cũ gọi là nước Tỳ Xá Ly)...
Cung Thành chu vi 5 dặm. Cách Cung Thành 6 dặm về phía Tây bắc có Tháp miếu, là nơi Phật giảng Kinh Duy Ma.
Mé Đông bắc Tháp miếu khoảng 4 dặm có ngôi Tháp, là nền cũ của nhà của Duy Ma Cư sĩ, nơi đây vẫn còn xuất hiện những việc linh thiêng, thần kỳ! Căn nhà của Duy Ma Cư sĩ được xếp gạch lên nhau mà thành, truyền thuyết nói chồng đá lên nhau, nhà này là nơi Duy Ma thị hiện thân bệnh mà thuyết Pháp.
Trong khoảng Niên hiệu Hiển Khánh triều Đại Đường vua ra sắc chỉ cho Vệ Trưởng sử Vương Huyền Sách đi Sứ (Ấn Độ), tiện dịp ghé qua nhà (cũ) của Tĩnh Danh, dùng thẻ hốt đo nền nhà, đo được chỉ có 10 hốt, do đó gọi là Nhà Phương Trượng!”.

Tiếng Phương Trượng chỉ phòng của Sư trụ trì trong Chùa đã bắt nguồn từ đó.
Người ta vẫn nói “Phương trượng” là tiếng chỉ nhà ở của Cư sĩ Duy Ma Cật, thế nhưng không thấy ai nêu rõ 1 trượng dài bao nhiêu để có khái niệm về độ lớn của căn nhà!
Bây giờ chúng ta hãy tìm hiểu vấn đề này.

Trước hết là cái Hốt của quan chức thời cổ và độ dài của nó.
Hốt là thẻ bài các quan cầm khi vào họp triều, có việc gì thì ghi trên đó để nhớ. Thời cổ từ vua quan cho tới sĩ thứ đều dùng hốt. Về sau thì chỉ có quan chức mới được dùng.
Hoàng Dĩ Chu (1828 - 1899), học giả cuối kỳ Thanh triều (1644 - 1911), trong tác phẩm nghiên cứu Lễ chế “Lễ Thư Thông Cố”, dẫn thiên ‘Ngọc Tảo’ trong sách “Lễ Ký” nói là độ dài qui định của HỐT là “Nhị xích hữu lục thốn” (2 thước 6 tấc).
(Tham khảo Lễ Thư Thông Cố. Qu. XLIX. Danh vật đồ 2. Hốt).
Thước, tấc nói trong sách “Lễ Ký” là thước, tấc đời Chu (1121 - 256 tr. Cn):
1 xích = 19.91 cm / 1 tấc = 1 / 10 thước = 1.991 cm
Vậy 1 Hốt = (19.91 cm x 2) + (1.991 cm x 6) = 39.82 cm + 11.946 cm = 51.766 cm
10 Hốt = 51.766 cm x 10 = 517.66 cm, tức 5.1766 m.
1 xích thời Đường = 31.10 cm, tính ra thì mỗi cạnh nhà của Duy Ma sẽ là 8.086 m.
Thế nhưng, cứ đoạn văn dẫn trên của “Pháp Uyển Chu Lâm” thì 10 Hốt = 1 Trượng.
Vậy, nếu nói theo hệ thống đời Chu thì ở đây 1 Hốt dài 19.91 cm.
Còn nói theo hệ thống đời Đường thì 1 Hốt dài 31.10 cm
Nếu nói theo đơn vị Trượng thời Chu thì mỗi cạnh nhà của Duy Ma Cật = 1.991 m.
Nếu tính theo qui định thời Đường thì mỗi cạnh nhà của Duy Ma Cật sẽ là: 3.11 m.
Nói khác đi, nếu ứng dụng 1 Cây Hốt dài 2 xích 6 tấc của thiên “Ngọc Tảo” thì điều này không ăn khớp với cả 2 hệ thống Chu và Đường!
Không rõ “Pháp Uyển Chu Lâm” nói theo hệ thống đo lường thời nào?
Thích Đạo Thế, tác giả tập sách kể trên là người thời Đường bởi vậy có lẽ ông nói theo qui định đo lường thời ông.
Từ hệ thống đo lường đời Đường nếu phân tích chút nữa ta thấy:
3.11m x 3.11m = 9.6721 m2. Tức xấp xỉ con số 10.
Qua đoạn văn của “Pháp Uyển Chu Lâm” thì rõ nhà cũ của Cư sĩ Duy Ma Cật sau này được gọi là “Phương Trượng”.

Cho nên câu Quá Phương Trượng nhi giới Câu Thi phải dịch là:
-Qua nhà cũ của Cư sĩ Duy Ma Cật rồi đi qua nước Câu Thi”.
Tóm lại, có thể nói  rằng Lê Mạnh Thát không hiểu câu “quá Phương Trượng” trên đây nói gì cho nên mới dịch hàm hồ như đã thấy.

24). “... chỉ khỏi được họa dao đâm, giữ được thân hôm sớm”.
Nguyên tác: “... cận miễn trị nhận chi họa, đắc tồn triêu tịch chi mệnh”.
-Trị nhận” nghĩa là “dùng dao đâm thấu vào”.
Dịch là “dao đâm” thì không sai, có điều, câu ở trước đã nói “đại kiếp tặc” thì giặc cướp không chỉ dùng “dao” mà còn dùng các thứ như kiếm, cung, dáo… tóm lại là vũ khí.
Câu “cận miễn trị nhận chi họa” do đó nếu dịch là “thoát được cái họa gươm đao” hoặc dịch “thoát được cái họa bị giặc cướp giết” thì xác đáng hơn! Dịch từng chữ một trong nhiều trường hợp phải nói là ngô nghê. 
Kế đến, 2 chữ “triêu tịch” ý chỉ “khoảng thời gian ngắn”, như nói kiếp sống của loài sâu phù du “triêu sinh nhi tịch tử”. Dịch là “hôm sớm” thì không nói rõ được ý nguyên tác!
Dịch từng chữ - điều rất thường thấy trong việc chuyển dịch của Lê Mạnh Thát, nhiều lúc rồi không diễn hết ý của nguyên văn, mà đôi khi còn ngớ ngẩn nữa!
                                                                             ( Còn kỳ 3)
                                                                             GS Minh Di

No comments: