Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Monday, June 9, 2014

THƠ ĐƯỜNG CHỌN DỊCH: NGUYỄN TRUNG NGẠN, CHU VĂN AN, PHẠM SƯ MẠNH, HỒ TÔNG THỐC, ĐẶNG DUNG - Phạm Đình Nhân dịch - Dịch giả Ngọc Châu giới thiệu

Dịch giả Phạm Đình Nhân


8. NGUYỄN TRUNG NGẠN
(1280 – 1370)
Nguyễn Trung Ngạn, danh sĩ  đời Trần Anh Tông, tự Bang Trực, hiệu Giới Hiên, quê thôn Thổ Hoàng nay thuộc huyện Ân Thi, Hưng Yên. Ông đỗ Hoàng giáp năm Giáp Thìn (1314) khi mới 15 tuổi. Làm quan đến chức An phủ sứ Nghệ An, Giám tu Quốc sử ở Viện Quốc sử, thăng chức Hành Khiển. Ông làm quan trải 5 đời vua, được phong Đại học sĩ trụ quốc, tước Khai Huyện Bá, rồi Thân Quốc Công, là tác giả Giới Hiên thi tập,  ông cùng Trương Hán Siêu soạn sách Hoàng Triều đại điển và bộ Hình luật thư. Mất năm Canh Tuất (1370), hưởng thọ 81 tuổi.

60. THẦN ĐẦU CẢNG VÃNG BẠC
Nguyên tác:         
         
         
         
           
           
           
           
           


Phiên âm: Thần Đầu cảng vãng bạc
Ba dao nhật cước tán hà hồng,
Vô hạn ngư gia lạc chiếu trung.
Nhất thủy bạch tòng thiên thượng lạc,
Quần sơn thanh đáo hải môn không.
Long quy động khẩu tinh sinh vụ,
Kình phún triều đầu mộ khởi phong.
Độc phiếm lan chu quan hạo đãng,
Hốt nghi thân tại lạn ngân cung.

Dịch thơ: Đậu thuyền cửa biển Thần Đầu
                                     Phạm Đình Nhân
                                             Dịch 2000


Sóng biển tung bay tán sắc hồng,
Xóm chài chen chúc ở ven sông.
Nước trong tự trời tuôn như ngọc,
Ngàn biếc tràn lan cửa biển không.
Rồng về cửa động sương mù mịt,
Kình phun ngọn sóng gió mênh mông.
Thuyền lan một lá trông như vẽ,
Tưởng ở cung Ngân buổi sớm hồng.


Cửa biển Thần Sầu
                                     Ngọc Châu
                             Dịch 2013


Sóng tung tán ánh sắc hồng
Chen  nhau ngụ ở ven sông xóm chài
Nước tuôn như ngọc tự trời
Núi giăng khắp chốn biển khơi mịt mù
Rồng về cửa động sương mơ
Kình phun sóng dữ xa bờ mênh mông
Thuỳền lan một lá xuôi dòng
Tưởng như một sớm mai hồng cung Ngân.


9. CHU VĂN AN
(1292 – 1370)


Chu Văn An chính tên là Chu An, tự là Linh Triệt, hiệu là Tiều Ẩn. Ông sinh ngày 25.8.Nhâm Thìn (1292) tại làng Vân, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm, sau đổi là huyện Thanh Trì, Hà Nội. Thời trẻ ông học giỏi, lúc đầu không ra làm quan. Đời Trần Minh Tông, ông làm Quốc tử giám Tư nghiệp, dạy các con vua. Đời Trần Dụ Tông, ông dâng sớ xin chém đầu bảy tên gian thần, vua không nghe, ông từ chức về ở núi Phượng Hoàng, làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, Hải Dương, dậy học. Năm 1370, ông mất, Trần Nghệ Tông ban tên thuỵ là Văn Trinh, hiệu Khang Tiết, thờ ở Văn Miếu. Tác phẩm của ông gồm Tứ thư thuyết ước, Tiều Ẩn thi tập, Quốc âm thi tập…

61. LINH SƠN TẠP ỨNG
Nguyên tác: 灵  山  杂  應
萬 叠 青 山 簇 畫 屛
斜 旸 淡 半 抹 溪 明
翠 羅 徑 里 無 人 到
山 鵲 啼 烟 时 一 聲
Phiên âm: Linh Sơn tạp ứng
Vạn điệp thanh sơn thốc hoạ bình,
Tà dương đạm mạt bán khê minh.
Thuý la kính lý vô nhân đáo,
Sơn thuộc đề yên thời nhất thanh.

Dịch thơ: Cảm ứng ở Linh Sơn
                               Phạm Đình Nhân
                                       Dịch 2007
Trùng điệp non xanh tựa bức tranh,
Bóng chiều nhạt chiếu nửa khe xanh,
Lối đi cỏ biếc không người đến,
Trong khói chim rừng kêu thất thanh.


        Cảm tác ở núi Linh
                               Ngọc Châu
                                       Dịch 2013
        
           
Núi xanh trùng điệp như tranh
Nắng chiều chiếu nửa khe xanh nhạt mờ
Cỏ biếc lối không người qua
Chim rừng nháo nhác la đà khói bay.
62. THÔN NAM SƠN TIỂU KHÊ

Nguyên tác: 村  南  山  小 徯
閒  身  南  北  片  雲  轻
半  枕  清  風  世  外  情
佛  介  清  幽  塵  介  遠
庭  前  喷  血  一  冥  鳴

Phiên âm: Thôn Nam sơn tiểu khê
Nhàn thân nam bắc phiến vân khinh
Bán chẩm thanh phong thế ngoại tinh.
Phật giới thanh u trần giới viễn,
Đình tiền phún huyết nhất oanh minh.

Dịch thơ: Tạm nghỉ ở núi Thôn Nam
                         Phạm Đình Nhân
                      Dịch 2007
               Thân nhàn nam bắc áng mây bay,
Gió mát, việc đời thấy nhẹ thay,
Cõi Phật tịnh thanh, xa cõi tục
Trước sân hoa đỏ, tiếng oanh say.
       
               Nghỉ ở thôn Nam Sơn                                
                             Ngọc Châu
                                     Dịch 2013


Nhàn thân nam bắc mây bay
Gió mát thổi, thấy nhẹ thay việc đời
Tịnh cõi Phật, tục xa rời
Ngoài sân hoa đỏ, hót cười chim oanh



10. PHẠM SƯ MẠNH


Phạm Sư Mạnh tự là Nghĩa Phu, hiệu là Uý Trai, người Hiệp Thạch, Hiệp Sơn, Kinh Môn, Hải Dương. Ông là học trò Chu Văn An. Đỗ Thái học sinh đời Trần Minh Tông (1314-1329). Năm 1346 giữ chức Trưởng bạ thư kiêm Khu mật tham chính. Năm 1358 làm Nhập nội hành khiển Tri khu mật viện sự. Năm 1539 làm Hành khiển tả tư lang trung. Năm 1362 giữ chức Tri khu mật viện sự rồi thăng chức Nhập nội nạp ngôn. Ông để lại Hiệp thạch tập và  có khoảng 30 bài thơ trong Toàn Việt thi lục

63. CHU TRUNG TỨC SỰ


Nguyên tác: 舟  中  即  事

士  宦  三  朝  備  厅  官
苍  头  白  发  為  還  山
焚  香  坐  对  二  河  月
惆  悵  烟  溪  俠  石  閒


Phiên âm: Chu trung tức sự

Sĩ hoạn tam triều bị sảnh quan,
Thương đầu bạch phát vị hoàn san,
Phần hương toạ đối Nhị hà nguyệt,
Trù trướng yên khê Hiệp Thạch gian

Dịch thơ: Thơ tức sự trên thuyền
         Phạm Đình Nhân
Dịch 2007

Thay đổi ba vua vẫn chức quan
Muốn lên sườn núi sống an nhàn
Đốt hương ngồi ngắm trăng sông Nhị
Hiệp Thạch quê mình nhớ khói lam


Tức sự trên thuyền
        Ngọc Châu
        Dịch 2013


Ba triều vua vẫn làm quan
Chỉ mong lên núi an nhàn tấm thân
Ngắm trăng sông Nhị hương trầm
Nhớ về Hiệp Thạch khói lam quê nhà



64. ĐĂNG THIÊN KỲ SƠN LƯU ĐỀ


Nguyên tác:   登 天 旗 山 流 题
東  朝  多  有  好  江  山
苦  戀  明  時  敢  乞  閑
绿  闇  鹤  田  今  再  到
雲  深  龍  御  缭  難  攀
風  軒  水  槛  苍  苔  古
竹  徑  花  隄  锦  石  斑
曾  是  先  皇  遊  赏  地
春  来  愁  咀  最  相  觀


Phiên âm: Đăng Thiên Kỳ sơn lưu đề

Đông Triều đa hữu hảo giang san,
Khổ luyến minh thời cảm khất nhàn.
Lục ám hạc điền kim tái đáo,
Vân thâm long ngự liểu nan phan.
Phong hiên thuỷ hạm thương đài cổ,
Trúc kính hoa đê cẩm thạch ban.
Tằng thị Tiên hoàng du thưởng địa,
Xuân lai sầu tứ tối tương quan.

Dịch thơ:
              Lên núi Thiên Kỳ đề thơ lưu niệm                                  
       Phạm Đình Nhân
       Dịch 2007

Sông núi Đông Triều đẹp xiết bao,
Nhớ triều sáng suốt, chẳng tơ hào.
Màu xanh ruộng hạc nay năng đến,
Mây kín xe long khó lối vào.
Hiên gió rêu xanh bên  nước biếc
Đường hoa lối trúc đá xanh cao
Đây chốn Tiên hoàng thường thưởng ngoạn,
Xuân về, buồn nhớ lại tuôn trào.


Dịch giả Ngọc Châu

                     
   Ngọc Châu
  Dịch 2013


Đông Triều sông núi đẹp sao
Vua nghiêm quan chẳng tơ hào của dân
Ruộng xanh kéo hạc lại gần
Mây dầy  xe ngự khó phần lại qua
Rêu xanh nước biếc hiên nhà
Đường ven lối trúc đá hoa xanh màu
Tiên Hoàng thường ngoạn du lâu
Xuân về lại nhớ ràu ràu trong tâm.



11. HỒ TÔNG THỐC


Hồ Tông Thốc người làng Thổ thành, phủ Diễn Châu, nay là xã Thọ Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Ông  sống cư ngụ tại xã Vô Ngại,  huyện Đường Hào, sau đổi là Mỹ Hào, nay là thôn Vô Ngại, xã Bạch Sam, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Năm Thiệu Khánh đời Trần  Nghệ Tông (1370-1372), ông đỗ Trạng nguyên, làm quan đến Hàm lâm học sĩ. Ông từng làm An Phủ sứ và có lần đi sứ Trung Quốc. Vào cuối niên hiệu Xương Phù đời Trần Phế Đế (1377-1388), ông được thăng lên Hàm lâm học sĩ phụng chỉ kiêm Thẩm hình viện sứ rồi Trung thư lệnh. Khi nhà Hồ lên ngôi, ông về ở ẩn và mất, thọ 80 tuổi. Tác phẩm để lại gồm có Việt sử cương mục, Thảo Nhàn hiệu tần tập, Việt Nam thế chí, Phú học chỉ nam…


65. ĐỀ  HẠNG VƯƠNG TỪ

Nguyên tác: 題  项  王  祠

百  越 山  河  起  战  烽
兮  惊  子  弟  入  關  中
烟  消  浛  谷  朱  宮  冷
雪  散  红  門  玉  斗  空
一  败  有  天  亡  泽  左
重  来  無  地  到  江  東
經  营  五  載  成  何  事
宵  得  區  區  葬  魯  公


Phiên âm: Đề Hạng Vương từ

Bách Việt sơn hà khởi chiến phong,
Hề tương tử đệ nhập Quan Trung.
Yên tiêu Hàm Cốc châu cung lãnh,
Tuyết tán Hồng Môn ngọc đẩu không.
Nhất bại hữu thiên vong Trạch Tả,
Trùng lai vô địa đáo Giang đông.
Kinh doanh ngũ tải  thành hà sự?
Tiêu đắc khu khu táng Lỗ Công.


Dịch thơ: Đề ở đền Hạng Vương
                                  
                            Phạm Đình Nhân
                                    Dịch 2007


               Bách Việt non sông rực chiến công
Đem đoàn đệ tử chiếm Quan Trung.
Khói tan Hàm Cốc cung A  lạnh,
Đẩu vỡ Hồng Môn như tuyết tung.
Số đã định, theo đường Trạch Tả,
Nẻo đi về, chẳng đến Giang Đông.
Năm năm lăn lộn hoài công sức ?
Chỉ  được làm  tang theo Lỗ Công


Viết ở đền Hạng Vương           
                             Ngọc Châu
                             Dịch 2013


Bách Việt rực rỡ chiến công
Anh em tử đệ  Quan Trung chiếm thành
Hàm Cốc khói tan lạnh tanh
Hồng Môn đẩu vỡ tan tành tuyết bay
Định số, Trạch Tả đường này
Đến Giang Đông, chẳng có ngày mai sau
Năm năm lăn lộn dãi dàu
Lễ tang chỉ bậc khanh hầu Lỗ Công


12. ĐẶNG DUNG
( ? – 1414)


Đặng Dung, danh tướng đời Hậu Trần, quê Thiên Lộc, nay là Can Lộc, Hà Tĩnh, con trai Đặng Tất. Ông là viên tướng giỏi thời Hậu Trần, người đã cùng Nguyễn Cảnh Dị đưa Trần Quý Khoáng lên ngôi. Quân Minh đem quân xâm lược, bắt được Trùng Quang Đế tức Trần Quý Khoàng cùng với Đặng Dung và Nguyễn Súy giải về Tàu. Trên đường đi, vua tôi nhà Trần đã nhảy xuống biển tự vãn để tỏ rõ khí phách (1414). Đặng Dung để lại bài thơ Cảm hoài nổi tiếng để tỏ rõ tâm trạng của mình. Qua 5 thế kỷ, bài thơ đã được nhiều thi nhân xưa và nay dịch.



66. CẢM HOÀI
Nguyên tác:   怀  

 事  悠  悠  柰  老  何
無  窮  天  地  入  嗛  歌
时  來  屠  釣  成  工  易
運  去  英  雄  飮  恨  多
致  主  有  怀  桴  地  軸
洗  兵  無  路  挽  天  河
國  仇  为  報  头  先  白
幾  度  拢  泉  帯  月  么


Phiên âm: Cảm hoài

Thế sự du du nại lão hà,
Vô cùng thiên đia nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma.

Dịch thơ:  Nỗi lòng
                             Phạm Đình Nhân
                     Dịch 1999

Thế cuộc nao nao hận tuổi già,
Đất trời muôn nẻo ngậm ngùi ca.
Gặp thời, kẻ mọn thành công dễ,
Lỡ vận, anh hùng nuốt hận la.
Phò chúa, những mong vần trái đất,
Dậy binh, không giữ nổi thiên hà.
Nước non chưa đáp, nay đầu bạc,
Mấy độ mài gươm dưới ánh tà?


Cảm tác
                             Ngọc Châu
                                     Dịch 2013
Thế cuộc buồn, hận tuổi già
Bao la trời đất khúc ca ngậm ngùi
Thành công - kẻ mọn gặp thời
Anh hùng nuốt hận giữa đời -  vận qua
Phò chúa mong vực sơn hà
Dậy binh vẫn để nước nhà bại vong
Bạc đầu nợ nước chưa xong
Mài gươm mấy độ náo trông trăng tà?


            (Còn tiếp lần 9)

No comments: