Một giờ sáng, bác sĩ nội trú
gọi điện thoại báo tin bệnh nhân D. yếu dần, chắc không qua khỏi, hỏi
tôi có đến không. Tôi có thể đợi đến
sáng mới vào nhưng lần này tôi vội đi ngay. Dãy lầu dành riêng cho bệnh nhân
già yếu im vắng, tôi vẫn đến thăm ông vài ngày một lần. Tôi nhớ lại tiểu sử: 87
tuổi, gốc châu Âu, góa vợ, thiếu máu động mạch tim, sick sinus, rung nhĩ, máy
tạo nhịp, ung thư tiêu hóa. Hồ sơ bệnh nhân có chữ no code, đó là một người
bệnh không muốn cấp cứu giai đoạn cuối, muốn ra đi yên bình. Khi tôi đến thăm,
bao giờ đầu giường cũng thấy hai bức ảnh của hai chàng trung niên, một người
mang kính, nghiêm nghị, một người trán hói tươi cười, cả hai đều đẹp trai. Đó
là hai người con của ông đang ở Hoa Kỳ. Mặc dù kín đáo, khi được hỏi, mặt ông
tươi lên và kể chi tiết về các con. Cả hai đều là những nhà thiên văn học, say
mê các vì sao từ khi còn học trung học ở Canada, nay đều đã có vợ con, và rất
nổi tiếng. Ông kể cả hai có công phát hiện những tinh tú mới và tên của họ được
đặt tên cho hai vì sao. Thỉnh thoảng vài năm các con và cháu cũng bay về thăm
ông, và thỉnh thoảng gọi điện thoại. Ba năm gần đây họ không về nữa, điện thoại
thưa dần, vì công việc bận rộn. Như thế cũng vô tình nhưng không tệ lắm so với
nhiều gia đình khác, tôi thầm nghĩ.
Khi tôi đến, ông nằm im trên giường, màn hình monitor nhấp
nháy các chỉ số mạch hô hấp huyết áp dưỡng khí. Tôi ngồi xuống. Ông nhắm mắt,
thở nặng nhọc. Tôi bắt mạch, giữ tay ông trong tay mình một lúc rồi đứng lên.
Khi tôi bước đi, có tiếng gọi khẽ, tôi quay lại, thấy ông mở mắt, bắt gặp tia
nhìn sáng lên, tinh anh khác thường. Mấp máy môi. Tôi tiến lại gần, cúi xuống.
Bỗng nghe ông nói tiếng nhỏ nhưng rõ ràng: con trai của ba?
Tôi giật mình. Ông hỏi lại lần nữa, nhỏ như nói thầm, nhưng
từng tiếng: con trai của ba? Họng tôi nghẹn lại. Tôi ngồi hẳn xuống giường, cầm
tay, cúi mặt xuống, trả lời: dạ, con trai của ba đã về. Ông lắng nghe, không
phản ứng gì. Tôi nhắc lại. Rồi lần thứ ba. Lần này ông nghe được, khẽ gật đầu
ra dấu, mặt thoáng nụ cười mỏng, rồi nhắm mắt lại. Ngọn đèn tàn bấc đã cháy
bừng lên một lúc.
Tôi gọi nhiều lần nữa, có lúc ông mở mắt, nhưng tia nhìn đã
hết tinh anh, rồi mờ dần. Bốn giờ sau, ông mất. Khi tôi được gọi trở lại để làm
các thủ tục như tìm phản xạ đồng tử, và làm pronouncement, đã năm giờ sáng. Tôi
điện thoại cho gia đình, không liên lạc được. Tôi chậm chạp vuốt mắt cho ông
lần cuối, như thói quen của tôi những khi có thể.
Sau khi đã chết rồi, người ta vẫn còn tổn thương. Những việc
làm như báo tin, vuốt mắt, khai tử, cầu nguyện, tang lễ, không phải chỉ là các
thủ tục. Đối với tôi, đó là các nghi lễ. Nghi lễ mở đường cho sự chữa lành vết
thương, làm chúng hồi phục.
Đi theo sau chiếc giường phủ drap trắng của ông một đoạn,
rồi rẽ lối khác tới khu vực đậu xe, tôi bước thong thả dọc hành lang treo những
ngọn đèn vàng đục nhỏ, trong không khí xanh, loãng, tối, lạnh, mơ hồ, trên bầu
trời sắp sáng lác đác vài ngôi sao tít tắp, nghĩ đến bài thơ mới đọc. Có một
niềm day dứt và nỗi nhớ thương vô hạn trong bài thơ ấy.
Tôi dừng bên cửa sổ, nhìn lên cao kỹ hơn, không, trên trời
đêm nay không phải có vài vì sao, mà chỉ có hai vì sao thôi, nhấp nháy, gần
nhau. Tôi nghĩ đến những người ở xa giờ này chưa biết tin, nhưng chắc họ đang
có linh cảm nào đó, và nếu đang ngủ thì giấc ngủ bồn chồn. Tôi nghĩ đến ngày
cha tôi mất, khi tôi vừa rời xa đất nước, không ở bên cạnh. Ông ở trong vòng
tay của mẹ tôi, các chị tôi, em gái tôi. Nhưng đứa con trai thì ở xa. Ngày ấy,
nhiều người như tôi ra đi không kịp nghĩ đến dịp trở về. Trên thế gian này, bao
nhiêu người may mắn được ngồi bên cạnh giường của cha hay mẹ mình phút cuối. Và
bao nhiêu người khác nữa vào giây phút ấy lặn lội nơi xa, đang cầu nguyện hay
cãi vã, đang săn đuổi hay bị săn đuổi, đang sai và nghĩ mình đúng, đang đúng và
nghĩ mình sai, đang hạnh phúc hay buồn rầu. Tất cả những người ấy nên đọc bài
thơ của Robert Hayden.
Những Chủ Nhật Mùa Đông
Cha tôi dậy sớm ngay cả ngày chủ nhật
Thay áo quần trong tối lạnh xanh mờ
Bàn tay cha nứt nẻ vì công việc
Nhóm lửa lò cháy rực. Nhưng chẳng ai
Từng biết cám ơn. Tôi thức giấc, than hồng
Lách tách, bếp ấm dần, cha mới gọi tôi
Dậy mặc áo quần, nhưng tôi ngần ngại
Căn nhà xiêu cột kèo
kêu giận dữ
Tôi cũng chuyện trò ấm ớ với cha tôi
Ông dậy sớm không phải vì tôi sao?
Và đánh bóng những đôi
giày, cũng thế
Nhưng tôi có để ý gì đâu? Nào biết gì đâu?
Mưa nắng dãi dầu, tình yêu khổ hạnh
Those Winter Sundays
Sundays too my father got up early
and put his clothes on in the blueblack cold,
then with cracked hands that ached
from labor in the weekday weather made
banked fires blaze. No one ever thanked him.
I’d wake and hear the cold splintering, breaking.
When the rooms were warm, he’d call,
and slowly I would rise and dress,
fearing the chronic angers of that house,
Speaking indifferently to him,
who had driven out the cold
and polished my good shoes as well.
What did I know, what did I know
of love’s austere and lonely offices?
Đang mê mải đi trên đường, đôi khi bạn nghe tiếng gọi từ
phía sau. Bạn quay lại: không có ai cả. Tiếc thương không phải là cảm xúc u
buồn trầm uất, trái lại nó có thể làm tình yêu trở nên sâu thẳm vững bền. Tiếc
thương là một hành động, là tấm gương chiếu rọi bất ngờ, thách thức, vỗ về, nối
kết, làm đầy một tình yêu chưa trọn vẹn.
(Trích Nhật Ký)
Nguyễn Đức Tùng
(Canada )
1 comment:
Xin phép góp vào bài dịch:
Cha dậy sớm dẫu hôm nay chủ nhật
Thay áo quần trong tối lạnh xanh mờ
Nhóm bếp lò bằng tay nẻ ráp thô
Nhưng chẳng ai biết nói lời cảm tạ
Tôi tỉnh giấc khi căn nhà bớt giá
Người chỉ gọi tôi khi bếp lửa ấm dần
Chưa chịu dậy vì còn chút ngại ngần
Bởi vẫn sợ ngôi nhà rên xiết giận
Với cha, tôi vài câu chiếu lệ
Và thấy mình thật bất hiếu với ông
Ông dậy sớm xua cái lạnh mùa đông
Chăm chút cho tôi từ đôi giầy sáng bóng
Tôi biết gì về tình yêu cuộc sống
Về những gì cha dành trọn cho tôi
Khổ hạnh vì tôi, khắc khổ một đời
Lặng lẽ giúp mà không hề bực bội?
Post a Comment