Hoàng Phủ Ngọc Tường (sinh 9 tháng 9 năm 1937 tại thành phố Huế) là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1978), quê gốc ở làng Bích Khê, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Năm 1960: tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài Gòn khóa I, ban Việt Hán.
Năm 1964: nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế.
Năm 1960 - 1966: Dạy trường Quốc Học Huế.
Từ 1963 tham gia phong trào học sinh, sinh viên và trí thức Huế với tư cách là Tổng thư ký hội Sinh viên Huế.
Năm 1966 – 1975: tham gia kháng chiến chống Mỹ.
Từ 1975 cho đến khi nghỉ hưu: vừa sáng tác, vừa tham gia công tác quản lý tại các Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế và Quảng Trị.
Vợ Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ. Hiện nay ông đang sống ở Huế.
Năm 2007, ông được trao Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, cùng đợt với vợ ông.
Tác phẩm
Thể loại bút ký:
Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn lâu (1972).
Rất nhiều ánh lửa (1979, giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1980)
Ai đã đặt tên cho dòng sông (1945)
Bản di chúc của cỏ lau ( truyện ký, 1984)
Hoa trái quanh tôi (1995)
Huế, di tích và con người ( 1996)
Ngọn núi ảo ảnh (2000)
Trong mắt tôi (2001)
Rượu hồng đào (truyện ký, 2001)
Thể loại nhàn đàm:
Nhàn Đàm (1997)
Miền gái đẹp (2001)
Thể loại thơ:
Những dấu chân qua thành phố (1976)
Người hái phù dung (1995)
Ngoài ra, vào năm 2002 nhà xuất bản Trẻ đã cho xuất bản Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường gồm 4 tập.
http://vi.wikipedia.org/
Gưỉ Cho Người
Thôi xem em là bông hoa,
Một ngày qua - một ngày qua - một ngày
Thôi xem anh là đám mây
Một đường bay - một đường bay - môt. đời
Tài hoa cũng chuyên. đùa chơi
Làm sao thưa hết một lời yêu thương
Anh đi tìm khắp thiên đuờng
Chỉ còn một đoá vô thường gơỉ em
Gưỉ em một nét sông mềm
Con đò áo trắng đã chìm trong mưa,
Rằng sông buồn tự thuở xưa
Vầng trăng mộng mị bây giờ là anh....
http://www.saigoninfo.com/poem/browse.php?action=s
Bồng bềnh cho tới mai sau
Có con thuyền trong sương trắng
Bồng bềnh như một cánh chim
Có em chèo thuyền áo trắng
Xôn xao như trốn, như tìm
Có vầng mặt trời rực sáng
Bồi hồi như một trái tim
Em chèo thuyền về phía hướng đông
Hứng chút phấn mặt trời trên má
Bụi mặt trời vương đầy gót chân
In những dấu hoa hài trên sóng
Anh mãi nghe từ đáy màu sương mỏng
Bài hát tình yêu dậy một phương hồng
Từ thuở nào vũ trụ đã sinh ra
Mà sao mặt trời mỗi ngày vẫn trẻ
Mà sao anh như đã từ vạn kỷ
Bên sông này đứng hát mặt trời lên
Vẫn đi hoài trong cõi vô biên
Mặt trăng là mảnh gương riêng soi trái đất
Trái đất trôi như một cánh bèo dâu
Mặt trời nhiều khi phập phồng hơi thở
Mê man nhớ những tinh cầu
Những hành tinh ngẫm rồi thấy lạ
Bềnh bồng mà vẫn theo nhau
Anh với em, ừ thì cũng lạ
Bềnh bồng cho tới mai sau.
(Nguồn: Văn Nghệ Công An)
http://evan.vnexpress.net/News/phe-binh/phe-binh/2006/06/3B9AD0B0/
Về chơi với cỏ
Thưa rằng người đã quên tôi
Tôi về chơi với ngọn đồi cỏ may
Một đường hang một dấu giày
Một người ngồi một tháng ngày bóng nghiêng
Cảm ơn người trái đào tiên
Tôi về lãng đãng nơi miền cỏ gai
Cỏ gai hoa thắm mặt người
Trinh nữ ơi trinh nữ ơi - tôi buồn
Thôi người ở lại soi gương
Tôi đi về phía con đường cỏ lau
Nợ người một khối u sầu
Tìm người tôi trả ngày sau luân hồi
Mai kia rồi cũng xa người
Tôi về ngủ dưới khung trời cỏ hoa
Có nàng xoã tóc tiên nga
Quỳ hôn cát bụi khóc oà như mưa.
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Giáo dục, 2005
http://maxreading.com/?chapter=7247
Nhớ một người
Có đôi khi tôi ghé thăm vườn cũ
Hỏi người đi dạo ấy có quay về?
Cỏ bảo rằng: - Nàng về thăm một độ
Đốt khói trầm nghi ngút, lại bay đi
Tôi bồi hồi hỏi sang cây cổ thụ:
- Đường xưa còn vàng nắng áo mơ phai?
Nắng bảo rằng: - Nàng nhớ mùa thu cũ
Tận bên trời vẫn ngóng gió heo may.
Có một lần qua sông tôi hỏi gió:
Rằng tháng năm như nước chảy qua cầu
Gió mách rằng: - Nàng chờ người bạn cũ
Dẫu thời gian theo nước chảy về đâu.
Có nhiều ngày tôi nhớ em tha thiết
Nhớ bừng bừng như ngọn lửa trong tim
Đời lãng tử có một lần li biệt
Để buông nhau. Để quay quắt đi tìm
Có nhiều đêm tôi trở về gặp tôi
- Người là ai? Là đóm lửa ven đời
Ôi đóm lửa vẩn từng đêm hiu hắt
Nhớ một người. Và mãi mãi khôn nguôi.
Địa chỉ buồn
Nhà tôi ở phố Đạm Tiên
Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu
Có mùi hương cỏ đêm sâu
Có loài hoa biết nuôi sầu tháng năm
Tôi về ngủ dưới vầng trăng
Có em từ chỗ vĩnh hằng nhìn tôi
Tình xa, xa mãi trong đời
Tóc xanh tiên nữ rối bời trên tay
Tôi còn ngọn nến hao gầy
Chảy như nước mắt từ ngày sơ sinh
Tôi xin em chút lòng thành
Cài lên một phiến u tình làm hoa
Những chiều Bến Ngự giăng mưa
Chừng như ai đó mơ hồ gọi tôi
Tôi ra mở cửa đón người
Chỉ nghe tiếng gió thổi ngoài hành lang
Nhà tôi ở phố Đạm Tiên
Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu
Cây sầu đông, cây sầu đau
Thương tôi cây cũng nở màu hoa râm.
http://vanhoc.xitrum.net/thoca/hiendai/2729.html
Dạ Khúc
Có một buổi chiều nào như chiều xưa
Anh về trên cát nóng
Đường dài vành môi khát bỏng
Em đến dịu dàng như một cơn mưa
Có một buổi chiều nào như chiều qua
Lòng tràn đầy thương mến
Mang cả xuân thì em đến
Thắm nồng như một bông hoa
Có buổi chiều nào người bỏ vui
chơi
Cho tôi chiếc hôn nồng cháy
Nỗi đau bắt đầu từ đấy
Ngọt ngào như trái nho tươi
Có buổi chiều nào mộng mị
vây quanh
Nửa vành mi cong hờn dỗi
Em xõa muộn sầu trên gối
Rối bời như mớ tơ xanh
Có buổi chiều nào hình như
chưa nguôi
Vầng trăng sáng màu vĩnh viễn
Em có lời thề dâng hiến
Cho anh trọn một đời người
Có buổi chiều nào như chiều nay
Căn phòng anh bóng tối dâng đầy
Anh lặng thầm như là cái bóng
Hoa tàn một mình em không haỵ
http://www.vietnamsingle.com/p_tho.asp?BID=1614
Chuyện Cơm Hến
Người Huế ăn giống như học bài học cuộc đời, phải nếm đủ vị mặn, lạt, chua, cay, ngọt, bùi... không chê vị nào; lại còn tỏ ra thích thú với hai vị mà thiên hạ đều sợ là cay và đắng. Vườn Bắc cũng trồng mướp đắng, chỉ dùng trái chín đỏ độn thịt làm món hầm, còn trái xanh chỉ dùng... xoa sảy cho trẹ con. Người Huế thích dùng mướp đắng lúc còn xanh; nấu canh phải đuống nồi nước sôi xuống mới thả mướp vào để đảm bảo là đắng, lại còn bóp mướp sống làm món nộm, đắng một cách tuyệt vời! Có hôm tàu dừng ở ga Lăng Cô, thấy nấm tràm bán rẻ như cho không, tôi bèn hí hửng mua luôn một rổ làm quà cho chú bạn tôi ở Đà Nẵng, gọi là đặc sản xứ Huế. Cháo nấm tràm nấu ra ngon đến thế, nhưng chỉ có đám dân Huế sì sụp vừa húp vừa khen, còn bạn nhậu người Quảng đều né hết, vì đắng chịu không nổi. Hóa ra chỉ cách nhau một cái đèo Hải Vân mà thôi mà cách ăn uống của người Huế lạ đời đến thế!
Nhưng lạ nhất là thói ăn cay, đến nỗi chính tôi cũng không hiểu sao mình ăn cay đến như vậy. Người Huế có đủ cung bậc ngôn ngữ để diễn tả vị cay, bao gồm hết mọi giác quan, càng nói càng "sướng miệng": cay phỏng miệng, cay xé lưỡi, cay điếc mũi, cay chảy nước mắt, cay toát mồ hôi, cay điếc tai, cau điếc óc, và hết cỡ là (xin lỗi mọi người) cay thấu... lỗ đít! Có thể nói rằng người Huế bắt đàu thực đơn hàng ngày bằng một tô bún bò "cay dễ sợ", tiếp theo là một ngày cay "túi mắt túi mũi", để kết thúc với tiếng rao "Ai ăn chè?", một chén ngọt lịm trước khi ngủ.
Tôi xin giới thiệu một ngày " hạnh phúc trời hành" của dân Huế tui, bắt đầu bằng món cơm hến. Những món ăn Huế như bún bò, cháo lòng... bây giờ trở thành phổ biến khắp nước (dù đã mất đi bản chất cay của nó), chỉ món cơm Hến này không nơi nào có, Hà Nội, Sài Gòn cũng có vài ba quán Huế có cả cơm hến, tôi đã thử xem, đều toàn là nghêu xắt nhỏ, đâu phải là hến! Vậy thì, cơm hến là gì?
Trước hết, nói về cơm. Người Việt mình ăn cơm kiểu nào cũng phải nóng, duy chỉ cơm hến nhất thiết phải là cơm nguội. Hình như người Huế muốn bày tỏ một quan niệm rằng trên đời chẳng có một vật gì đáng phải bỏ đi, nên bày ra món cá lẹp kẹp rau mưng, và món cơm nguội với những con hến nhỏ lăn tăn làm sốt ruột người chế biến món ăn, gọi là cơm hến. Sau này ở Huế người ta bày thêm món bún hến, dùng bún thay cơm nguội. Tôi rất ghét những lối cải tiến tạp nham như vậy. Bún đã có bún bò, ai có giang sơn nấy, việc gì phải cướp bản quyền sáng chế của người khác. Vả lại, người Huế (Huế xưa, không phải bây giờ) rất kiên định trong "lập trường ăn uống" của mình. Tôi nghĩ rằng trong vấn đề khẩu vị, tính bảo thủ la một yếu tố văn hóa hết sức quan trọng, để bảo toàn di sản. Với tôi, một món ăn đặc sản cũng giống như một di tích văn hóa, cứ phải giống y như nghìn xưa, và mọi ý đồ cải tiến đều mang tính phá phách, chỉ tạo nên những "đồ giả"!
Xin tiếp tục chuyện cơm hến. Hến ở Huế, ngon nhất là hến cồn, do đó cái gò nổi chiếm vị trí "Tả Thanh Long" rất mực sang trọng trong Dịch Lý của kiến trúc kinh thành, dân chỉ gọi nôm na là Cồn Hến. Đáy sông quanh cồn có một lớp bùn sâu, là môi sinh màu mỡ của loài hến. Điều lạ là con hến, dù không có tay chân, nhưng khi thời tiết thay đổi làm dòng nước chảy mạnh, nó có thể lặn sâu xuống đáy bùn để khỏi bị nước cuốn đi. Dân cồn làm nghề xúc hến mỗi năm đều có lễ cúng hến vào tháng bảy, trên những con đò cờ xí rộn rịp, tiếng trống vang lừng. Người ta luộc hến xong đem ra sông đãi trong những chiếc rỗ lớn, tách vỏ, lấy riêng mặt hến đem đong chén bán cho những người làm cơm hến.
Mặt hến này là vị chủ của cơm hến, xào kèm theo bún tàu (miến), măng khô và thịt heo thái chỉ. Món thứ ba trong cơm hến là rau sống. Chỉ một nhúm thôi, nhưng rau sống này làm bằng thân chuối hoặc bắp chuối xắt mảnh như sợi tơ, trộn lẫn với môn bạc hà, khế và rau thơm thái nhỏ, có khi còn điểm thêm những cánh bông vạn thọ vàng, nhìn tươi mắt và có thêm mùi hương riêng.
Nước luộc hến được múc ra từ chiếc nồi bung bốc khói nghi ngút, bằng chiếc gáo làm bằng sọ dừa xinh xắn, cho vào đầy một cái tô đã gồm đủ cơm nguội, hến xào, rau sống và được gia thêm đủ vị đồ màu. Nước hến có giã thêm gừng, màu trắng đùng đục. Vâng, mê nhất cái màu đùng đục ấy, ăn cơm hến mà chê nước đục là... dại!
Bộ đồ màu của cơm hến là nhiêu khê nhất thiên hạ. Đây là bảng liệt kê các món gia vị mà tôi từng quan sát được ở một gánh cơm hến, chắc có thể coi là "lý tưởng", như sau: 1.Ớt tương, 2.Ớt màu, ớt dầm nước mắm, 3.Ruốc sống, 4.Bánh tráng nướng bóp vụn, 5.Muối rang, 6.Hạt đậu phụng rang mỡ, giã hơi thô thô, 7.Mè rang, 8.Da heo rang giòn, 9.Mỡ và tóp mỡ,10.Vị tinh. Tất cả được đựng trong những thẩu, những vịm bày trên một cái trẹc, o bán cơm hến lấy ra bằng những chiếc gáo mù-u nhỏ xíu, bàn tay thoăn thoắt mỗi thứ một ít như là rây... nước thánh!
Hương vị bát ngát suốt đời người của tô cơm hến là mùi ruốc thơm dậy lên tận óc, và vị cay đến trào nước mắt. Người "máu" cơm hến vẫn chưa vừa lòng với vị cay sẵn có, còn đòi thêm một trái ớt tươi để cắn kêu cái rốp! Nước mắt đầm đìa, mồ hôi ròng ròng nhỏ giọt vào tô cơm, thế mà cứ sì sụp, xuýt xoa kêu "ngon, ngon!"; đi xa nhớ lại thêm tới đứt sợi tóc, ở nước ngoài về bay ra Huế để ăn cho được một tô cơm hến lấy làm hả hê, thế đấy, chao ôi là Huế!
Tôi nhớ lần ấy, chiều mưa râm ri cữ tháng mười một, tôi ngồi ăn cơm hến ở nhà Bửu YÙ ở đường Hàng Me. Tôi vừa đi Tây về, suốt hai tuần ở Cung Đại Hội các nhà văn, bữa ăn nào cũng toàn thịt, bơ, phó mát..., đến nỗi tôi thất kinh, nhiều ngày chỉ mang một trái mớ cây về phòng, ăn trừ bữa. Nhiều tuần lễ không có một hột cơm trong bụng, nghe tiếng rao cơm hến, tôi thấy xúc động tận chân răng. Đây là lần đầu tiên, tôi ăn một tô cơm hến bằng tất cả tâm hồn. Thấy chị bán hàng phải cho quá nhiều thứ trong bát cơm nhỏ, công thế mà chỉ bán có năm đồng bạc, tôi thấy làm ái ngại hỏi chị:
Lời lãi bao nhiêu mà chị phải công kỹ đến thế. Chỉ cần ba bốn thứ, vừa vừa thôi, có đỡ mất công không? Chị nhìn tôi với đôi mắt giận dỗi rất lạ:
Nói như cậu thì... còn chi mà là Huế!
Chị gánh hàng đi, dáng gầy mỏng manh, chiếc áo dài đen cũ kỹ, chiếc nón cời và tiếng rao lanh lảnh, bây giờ tôi mới phát hiện thêm vị thứ mười lăm, là lửa. Vâng, một bếp lửa chắt chiu, ấp ủ đi trong mưa suốt mùa đông, bền bỉ theo bước chân người...
Hoàng Phủ Ngọc Tường
http://tusach.vietnhim.com/showthread.php?t=28
Năm 1960: tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài Gòn khóa I, ban Việt Hán.
Năm 1964: nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế.
Năm 1960 - 1966: Dạy trường Quốc Học Huế.
Từ 1963 tham gia phong trào học sinh, sinh viên và trí thức Huế với tư cách là Tổng thư ký hội Sinh viên Huế.
Năm 1966 – 1975: tham gia kháng chiến chống Mỹ.
Từ 1975 cho đến khi nghỉ hưu: vừa sáng tác, vừa tham gia công tác quản lý tại các Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế và Quảng Trị.
Vợ Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ. Hiện nay ông đang sống ở Huế.
Năm 2007, ông được trao Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, cùng đợt với vợ ông.
Tác phẩm
Thể loại bút ký:
Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn lâu (1972).
Rất nhiều ánh lửa (1979, giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1980)
Ai đã đặt tên cho dòng sông (1945)
Bản di chúc của cỏ lau ( truyện ký, 1984)
Hoa trái quanh tôi (1995)
Huế, di tích và con người ( 1996)
Ngọn núi ảo ảnh (2000)
Trong mắt tôi (2001)
Rượu hồng đào (truyện ký, 2001)
Thể loại nhàn đàm:
Nhàn Đàm (1997)
Miền gái đẹp (2001)
Thể loại thơ:
Những dấu chân qua thành phố (1976)
Người hái phù dung (1995)
Ngoài ra, vào năm 2002 nhà xuất bản Trẻ đã cho xuất bản Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường gồm 4 tập.
http://vi.wikipedia.org/
Gưỉ Cho Người
Thôi xem em là bông hoa,
Một ngày qua - một ngày qua - một ngày
Thôi xem anh là đám mây
Một đường bay - một đường bay - môt. đời
Tài hoa cũng chuyên. đùa chơi
Làm sao thưa hết một lời yêu thương
Anh đi tìm khắp thiên đuờng
Chỉ còn một đoá vô thường gơỉ em
Gưỉ em một nét sông mềm
Con đò áo trắng đã chìm trong mưa,
Rằng sông buồn tự thuở xưa
Vầng trăng mộng mị bây giờ là anh....
http://www.saigoninfo.com/poem/browse.php?action=s
Bồng bềnh cho tới mai sau
Có con thuyền trong sương trắng
Bồng bềnh như một cánh chim
Có em chèo thuyền áo trắng
Xôn xao như trốn, như tìm
Có vầng mặt trời rực sáng
Bồi hồi như một trái tim
Em chèo thuyền về phía hướng đông
Hứng chút phấn mặt trời trên má
Bụi mặt trời vương đầy gót chân
In những dấu hoa hài trên sóng
Anh mãi nghe từ đáy màu sương mỏng
Bài hát tình yêu dậy một phương hồng
Từ thuở nào vũ trụ đã sinh ra
Mà sao mặt trời mỗi ngày vẫn trẻ
Mà sao anh như đã từ vạn kỷ
Bên sông này đứng hát mặt trời lên
Vẫn đi hoài trong cõi vô biên
Mặt trăng là mảnh gương riêng soi trái đất
Trái đất trôi như một cánh bèo dâu
Mặt trời nhiều khi phập phồng hơi thở
Mê man nhớ những tinh cầu
Những hành tinh ngẫm rồi thấy lạ
Bềnh bồng mà vẫn theo nhau
Anh với em, ừ thì cũng lạ
Bềnh bồng cho tới mai sau.
(Nguồn: Văn Nghệ Công An)
http://evan.vnexpress.net/News/phe-binh/phe-binh/2006/06/3B9AD0B0/
Về chơi với cỏ
Thưa rằng người đã quên tôi
Tôi về chơi với ngọn đồi cỏ may
Một đường hang một dấu giày
Một người ngồi một tháng ngày bóng nghiêng
Cảm ơn người trái đào tiên
Tôi về lãng đãng nơi miền cỏ gai
Cỏ gai hoa thắm mặt người
Trinh nữ ơi trinh nữ ơi - tôi buồn
Thôi người ở lại soi gương
Tôi đi về phía con đường cỏ lau
Nợ người một khối u sầu
Tìm người tôi trả ngày sau luân hồi
Mai kia rồi cũng xa người
Tôi về ngủ dưới khung trời cỏ hoa
Có nàng xoã tóc tiên nga
Quỳ hôn cát bụi khóc oà như mưa.
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Giáo dục, 2005
http://maxreading.com/?chapter=7247
Nhớ một người
Có đôi khi tôi ghé thăm vườn cũ
Hỏi người đi dạo ấy có quay về?
Cỏ bảo rằng: - Nàng về thăm một độ
Đốt khói trầm nghi ngút, lại bay đi
Tôi bồi hồi hỏi sang cây cổ thụ:
- Đường xưa còn vàng nắng áo mơ phai?
Nắng bảo rằng: - Nàng nhớ mùa thu cũ
Tận bên trời vẫn ngóng gió heo may.
Có một lần qua sông tôi hỏi gió:
Rằng tháng năm như nước chảy qua cầu
Gió mách rằng: - Nàng chờ người bạn cũ
Dẫu thời gian theo nước chảy về đâu.
Có nhiều ngày tôi nhớ em tha thiết
Nhớ bừng bừng như ngọn lửa trong tim
Đời lãng tử có một lần li biệt
Để buông nhau. Để quay quắt đi tìm
Có nhiều đêm tôi trở về gặp tôi
- Người là ai? Là đóm lửa ven đời
Ôi đóm lửa vẩn từng đêm hiu hắt
Nhớ một người. Và mãi mãi khôn nguôi.
Địa chỉ buồn
Nhà tôi ở phố Đạm Tiên
Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu
Có mùi hương cỏ đêm sâu
Có loài hoa biết nuôi sầu tháng năm
Tôi về ngủ dưới vầng trăng
Có em từ chỗ vĩnh hằng nhìn tôi
Tình xa, xa mãi trong đời
Tóc xanh tiên nữ rối bời trên tay
Tôi còn ngọn nến hao gầy
Chảy như nước mắt từ ngày sơ sinh
Tôi xin em chút lòng thành
Cài lên một phiến u tình làm hoa
Những chiều Bến Ngự giăng mưa
Chừng như ai đó mơ hồ gọi tôi
Tôi ra mở cửa đón người
Chỉ nghe tiếng gió thổi ngoài hành lang
Nhà tôi ở phố Đạm Tiên
Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu
Cây sầu đông, cây sầu đau
Thương tôi cây cũng nở màu hoa râm.
http://vanhoc.xitrum.net/thoca/hiendai/2729.html
Dạ Khúc
Có một buổi chiều nào như chiều xưa
Anh về trên cát nóng
Đường dài vành môi khát bỏng
Em đến dịu dàng như một cơn mưa
Có một buổi chiều nào như chiều qua
Lòng tràn đầy thương mến
Mang cả xuân thì em đến
Thắm nồng như một bông hoa
Có buổi chiều nào người bỏ vui
chơi
Cho tôi chiếc hôn nồng cháy
Nỗi đau bắt đầu từ đấy
Ngọt ngào như trái nho tươi
Có buổi chiều nào mộng mị
vây quanh
Nửa vành mi cong hờn dỗi
Em xõa muộn sầu trên gối
Rối bời như mớ tơ xanh
Có buổi chiều nào hình như
chưa nguôi
Vầng trăng sáng màu vĩnh viễn
Em có lời thề dâng hiến
Cho anh trọn một đời người
Có buổi chiều nào như chiều nay
Căn phòng anh bóng tối dâng đầy
Anh lặng thầm như là cái bóng
Hoa tàn một mình em không haỵ
http://www.vietnamsingle.com/p_tho.asp?BID=1614
Chuyện Cơm Hến
Người Huế ăn giống như học bài học cuộc đời, phải nếm đủ vị mặn, lạt, chua, cay, ngọt, bùi... không chê vị nào; lại còn tỏ ra thích thú với hai vị mà thiên hạ đều sợ là cay và đắng. Vườn Bắc cũng trồng mướp đắng, chỉ dùng trái chín đỏ độn thịt làm món hầm, còn trái xanh chỉ dùng... xoa sảy cho trẹ con. Người Huế thích dùng mướp đắng lúc còn xanh; nấu canh phải đuống nồi nước sôi xuống mới thả mướp vào để đảm bảo là đắng, lại còn bóp mướp sống làm món nộm, đắng một cách tuyệt vời! Có hôm tàu dừng ở ga Lăng Cô, thấy nấm tràm bán rẻ như cho không, tôi bèn hí hửng mua luôn một rổ làm quà cho chú bạn tôi ở Đà Nẵng, gọi là đặc sản xứ Huế. Cháo nấm tràm nấu ra ngon đến thế, nhưng chỉ có đám dân Huế sì sụp vừa húp vừa khen, còn bạn nhậu người Quảng đều né hết, vì đắng chịu không nổi. Hóa ra chỉ cách nhau một cái đèo Hải Vân mà thôi mà cách ăn uống của người Huế lạ đời đến thế!
Nhưng lạ nhất là thói ăn cay, đến nỗi chính tôi cũng không hiểu sao mình ăn cay đến như vậy. Người Huế có đủ cung bậc ngôn ngữ để diễn tả vị cay, bao gồm hết mọi giác quan, càng nói càng "sướng miệng": cay phỏng miệng, cay xé lưỡi, cay điếc mũi, cay chảy nước mắt, cay toát mồ hôi, cay điếc tai, cau điếc óc, và hết cỡ là (xin lỗi mọi người) cay thấu... lỗ đít! Có thể nói rằng người Huế bắt đàu thực đơn hàng ngày bằng một tô bún bò "cay dễ sợ", tiếp theo là một ngày cay "túi mắt túi mũi", để kết thúc với tiếng rao "Ai ăn chè?", một chén ngọt lịm trước khi ngủ.
Tôi xin giới thiệu một ngày " hạnh phúc trời hành" của dân Huế tui, bắt đầu bằng món cơm hến. Những món ăn Huế như bún bò, cháo lòng... bây giờ trở thành phổ biến khắp nước (dù đã mất đi bản chất cay của nó), chỉ món cơm Hến này không nơi nào có, Hà Nội, Sài Gòn cũng có vài ba quán Huế có cả cơm hến, tôi đã thử xem, đều toàn là nghêu xắt nhỏ, đâu phải là hến! Vậy thì, cơm hến là gì?
Trước hết, nói về cơm. Người Việt mình ăn cơm kiểu nào cũng phải nóng, duy chỉ cơm hến nhất thiết phải là cơm nguội. Hình như người Huế muốn bày tỏ một quan niệm rằng trên đời chẳng có một vật gì đáng phải bỏ đi, nên bày ra món cá lẹp kẹp rau mưng, và món cơm nguội với những con hến nhỏ lăn tăn làm sốt ruột người chế biến món ăn, gọi là cơm hến. Sau này ở Huế người ta bày thêm món bún hến, dùng bún thay cơm nguội. Tôi rất ghét những lối cải tiến tạp nham như vậy. Bún đã có bún bò, ai có giang sơn nấy, việc gì phải cướp bản quyền sáng chế của người khác. Vả lại, người Huế (Huế xưa, không phải bây giờ) rất kiên định trong "lập trường ăn uống" của mình. Tôi nghĩ rằng trong vấn đề khẩu vị, tính bảo thủ la một yếu tố văn hóa hết sức quan trọng, để bảo toàn di sản. Với tôi, một món ăn đặc sản cũng giống như một di tích văn hóa, cứ phải giống y như nghìn xưa, và mọi ý đồ cải tiến đều mang tính phá phách, chỉ tạo nên những "đồ giả"!
Xin tiếp tục chuyện cơm hến. Hến ở Huế, ngon nhất là hến cồn, do đó cái gò nổi chiếm vị trí "Tả Thanh Long" rất mực sang trọng trong Dịch Lý của kiến trúc kinh thành, dân chỉ gọi nôm na là Cồn Hến. Đáy sông quanh cồn có một lớp bùn sâu, là môi sinh màu mỡ của loài hến. Điều lạ là con hến, dù không có tay chân, nhưng khi thời tiết thay đổi làm dòng nước chảy mạnh, nó có thể lặn sâu xuống đáy bùn để khỏi bị nước cuốn đi. Dân cồn làm nghề xúc hến mỗi năm đều có lễ cúng hến vào tháng bảy, trên những con đò cờ xí rộn rịp, tiếng trống vang lừng. Người ta luộc hến xong đem ra sông đãi trong những chiếc rỗ lớn, tách vỏ, lấy riêng mặt hến đem đong chén bán cho những người làm cơm hến.
Mặt hến này là vị chủ của cơm hến, xào kèm theo bún tàu (miến), măng khô và thịt heo thái chỉ. Món thứ ba trong cơm hến là rau sống. Chỉ một nhúm thôi, nhưng rau sống này làm bằng thân chuối hoặc bắp chuối xắt mảnh như sợi tơ, trộn lẫn với môn bạc hà, khế và rau thơm thái nhỏ, có khi còn điểm thêm những cánh bông vạn thọ vàng, nhìn tươi mắt và có thêm mùi hương riêng.
Nước luộc hến được múc ra từ chiếc nồi bung bốc khói nghi ngút, bằng chiếc gáo làm bằng sọ dừa xinh xắn, cho vào đầy một cái tô đã gồm đủ cơm nguội, hến xào, rau sống và được gia thêm đủ vị đồ màu. Nước hến có giã thêm gừng, màu trắng đùng đục. Vâng, mê nhất cái màu đùng đục ấy, ăn cơm hến mà chê nước đục là... dại!
Bộ đồ màu của cơm hến là nhiêu khê nhất thiên hạ. Đây là bảng liệt kê các món gia vị mà tôi từng quan sát được ở một gánh cơm hến, chắc có thể coi là "lý tưởng", như sau: 1.Ớt tương, 2.Ớt màu, ớt dầm nước mắm, 3.Ruốc sống, 4.Bánh tráng nướng bóp vụn, 5.Muối rang, 6.Hạt đậu phụng rang mỡ, giã hơi thô thô, 7.Mè rang, 8.Da heo rang giòn, 9.Mỡ và tóp mỡ,10.Vị tinh. Tất cả được đựng trong những thẩu, những vịm bày trên một cái trẹc, o bán cơm hến lấy ra bằng những chiếc gáo mù-u nhỏ xíu, bàn tay thoăn thoắt mỗi thứ một ít như là rây... nước thánh!
Hương vị bát ngát suốt đời người của tô cơm hến là mùi ruốc thơm dậy lên tận óc, và vị cay đến trào nước mắt. Người "máu" cơm hến vẫn chưa vừa lòng với vị cay sẵn có, còn đòi thêm một trái ớt tươi để cắn kêu cái rốp! Nước mắt đầm đìa, mồ hôi ròng ròng nhỏ giọt vào tô cơm, thế mà cứ sì sụp, xuýt xoa kêu "ngon, ngon!"; đi xa nhớ lại thêm tới đứt sợi tóc, ở nước ngoài về bay ra Huế để ăn cho được một tô cơm hến lấy làm hả hê, thế đấy, chao ôi là Huế!
Tôi nhớ lần ấy, chiều mưa râm ri cữ tháng mười một, tôi ngồi ăn cơm hến ở nhà Bửu YÙ ở đường Hàng Me. Tôi vừa đi Tây về, suốt hai tuần ở Cung Đại Hội các nhà văn, bữa ăn nào cũng toàn thịt, bơ, phó mát..., đến nỗi tôi thất kinh, nhiều ngày chỉ mang một trái mớ cây về phòng, ăn trừ bữa. Nhiều tuần lễ không có một hột cơm trong bụng, nghe tiếng rao cơm hến, tôi thấy xúc động tận chân răng. Đây là lần đầu tiên, tôi ăn một tô cơm hến bằng tất cả tâm hồn. Thấy chị bán hàng phải cho quá nhiều thứ trong bát cơm nhỏ, công thế mà chỉ bán có năm đồng bạc, tôi thấy làm ái ngại hỏi chị:
Lời lãi bao nhiêu mà chị phải công kỹ đến thế. Chỉ cần ba bốn thứ, vừa vừa thôi, có đỡ mất công không? Chị nhìn tôi với đôi mắt giận dỗi rất lạ:
Nói như cậu thì... còn chi mà là Huế!
Chị gánh hàng đi, dáng gầy mỏng manh, chiếc áo dài đen cũ kỹ, chiếc nón cời và tiếng rao lanh lảnh, bây giờ tôi mới phát hiện thêm vị thứ mười lăm, là lửa. Vâng, một bếp lửa chắt chiu, ấp ủ đi trong mưa suốt mùa đông, bền bỉ theo bước chân người...
Hoàng Phủ Ngọc Tường
http://tusach.vietnhim.com/showthread.php?t=28
No comments:
Post a Comment