Nhà bình thơ Châu Thạch
ĐỌC
“LỜI KINH 2” THƠ TRẦN MAI NGÂN
VÀ
“KINH THƠ” CỦA QUANG TUYẾT
Châu Thạch
BÀN
VỀ “LỜI KINH 2” CỦA TRẦN MAI NGÂN
Bài thơ có đầu đề là “Lời kinh” mà nó chẳng tả gì về lời kinh. Vậy thì “Lời Kinh” là lời kinh chỗ nào?. Một người
như nhà thơ Trần Mai Ngân mà dám viết lời kinh thì có kiêu ngạo quá chăng? Muốn
biết có kiêu ngạo hay không ta phải tìm hiểu bài thơ thì mới có kết luận.
Đọc câu thơ đầu tiên tôi hoảng hốt: “Trú trong kinh Bát Nhã”. Kinh Bát Nhã
là gì?
“Bát
Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh là một bộ kinh rất ngắn của Đại Thừa Phật giáo, có ý
nghĩa rất thâm sâu, rất cơ bản, nhằm phá thói quen chấp thật rất nặng nề của
chúng sinh. Kinh này được các chùa tụng niệm rất thường xuyên, các thầy cúng
đám ma, ngay cả ở nông thôn miền nam Việt Nam cũng tụng kinh này. Có thể nói
kinh này rất quen thuộc với Phật tử, nhưng mọi người có hiểu rõ ràng tường tận
ý nghĩa của nó không, thì không dám chắc. Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh là quyển Tâm
Kinh nhằm phá chấp thật để hiển hiện trí bát nhã của bờ bên kia (ba la mật) tức
là bến bờ giác ngộ”.
Kinh Bát Nhã là thế nhưng nhà thơ Trần Mai Ngân dã trú
trong kinh Bát nhã. Vậy ai muốn ném đá nhà thơ cũng dễ vì có thể cho rằng tác
giả đã cao ngạo, tự cho mình như một tu sĩ thượng thừa mới trú được trong kinh
Bát Nhã. Trú tức là ở, có nghĩa là lấy kinh Bát Nhã làm ngôi nhà cho linh hồn
mình tá túc. Thế nhưng đọc hết bài thơ “Lời
Kinh 2” ta mới hiểu rằng nhà thơ muốn trú mà trú không được, bởi vì hết cả
bài thơ là nỗi dằn vặt của tâm tư, là niềm thương nhớ của thứ tình yêu trần thế.
Đức Phật Thích ca nói răng “Ta là Phật và các ngươi cũng sẽ là Phật”. Vậy thì không trách Trần
Mai Ngân được, vì Thích Ca là người đã trú trong kinh Bát Nhã và đã đến bờ bên
kia, còn Trần Mai Ngân hay Phật tử khác thì đang trú trong kinh Bát Nhã nhưng
chưa phá chấp được để ngộ, nên chưa biết ngày nào mới qua được cái bến mê để đến
bờ chấn lý.
Vậy vì sao nhà thơ đặt tên đầu đề bài thơ của mình là
Lời Kinh? Trong Phật gíao, kinh dịch theo âm là Tu-đa-la, là tên gọi của các
bài giảng của Đức Phật. Trong Thiên Chúa giáo, Kinh là lời của Đức Chúa Trời khải
thị cho con người viết.
Vậy thì Trần Mai Ngân cho bài thơ mình là Lời Kinh có
cao ngạo không? Trả lời là không. Vì sao là không? Bởi vỉ nhà thơ đã trú trong
kinh Bát Nhã, và những lời thơ là vọng âm của tâm hồn nàng từ trong kinh Bát
Nhã mà ra. Có thể nói rằng nhà thơ đã đọc kinh Bát Nhã nhưng thay vì lời kinh
đưa linh hồn đến cõi bình an thì ngược lại, linh hồn nhà thơ đã hỏa táng trong
cõi tình trường.
Cái hay của bài thơ là ở đó, cái thấm thía của bài thơ
là ở đó. Ta đọc bài thơ khác chi ta nhìn một ni cô giai nhân tuyệt sắc thất
tình nên đi tu. Lòng ta sẽ cảm thấy vừa kính vừa trọng vừa quý mến vừa thương
mà vừa ngưỡng mộ cái sắc đẹp trời cho ni cô ấy.
Thưởng thức bài thơ “Lời Kinh” của Trần Mai Ngân ta phải vận dụng niềm hoan lạc của một
tu sĩ, tâm hồn lãng mạn của một thi nhân cùng với nỗi đau thất tình thì mỗi câu
thơ, mỗi ý thơ sẽ thẩm thấu vào tâm hồn ta, làm trái tim ta rung động những cảm
xúc khó mà diễn đạt thành lời.
Đọc thơ là như vậy, không phải biện luận bằng “Tam Đoạn Luận” mà hiểu thơ, mà phải hiểu
bằng mắt ta, bằng tai ta, bằng tâm ta, bằng tất cả giác quan của ta, thêm cả
giác quan thứ sáu và bằng linh cảm trong ta nữa.
Nhà thơ Trần Mai Ngân đã trú trong lời kinh Bát Nhã để
khóc bằng lời tình. Tiếng thơ như tiếng chuông vọng từ nỗi đau chia lìa ly
biêt, như tiếng chuông vọng từ một bàn tay nữ tu nào đó trong dòng nước mắt dưới
bệ thờ, nơi chánh điện.
BÀN
VỀ “KINH THƠ” CỦA QUANG TUYẾT
Bây giờ hãy bước qua “Kinh Thơ” của Quang Tuyết.
Kinh của Quang Tuyết là kinh của thơ, nó không là lời
dạy của Phật hay của Chúa nhưng là sự tụng niệm của tình. Quang Tuyết đã sáng
tác ra thứ kinh ấy và nhẩm mãi trong lòng mình bởi sự hoài vọng tuổi thơ như
cơn bệnh tinh thần cũng bởi sự chia lìa ly cách mà có.
Thật ra kinh đó là tất cả niềm đau tiềm ẩn trong tâm hồn
thi sĩ, nó không cần tụng niệm ra lời nhưng nó tụng niệm trong tận sâu tâm hồn
qua tháng ngày, trên mọi cảnh vật mà sự nhớ đem đến cho thi nhân.
Đọc khổ đầu của bài thơ, ta thấy lời kinh thơ trong tiếng
sóng nước, tiếng mái chèo khua, trong âm thanh của dòng sông thực ngoài đời vọng
vào dòng sông ký ức trong linh hồn tác giả, để con thuyền của tuổi thơ lạc vào
một bên mơ nào không biết:
Chiều
về bên dòng sông tuổi thơ
Lắng
hồn trong tiếng sóng vỗ bờ
Hững
hờ sao đò chiều xua nước
Biết
về đâu... Về đâu bến mơ
Ta hãy nghe âm vọng của sóng trong bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp/Con
thuyền xuôi mái nước song song”.
Sóng của Huy Cận gợn lên nhau và kéo dài ra cùng con
thuyền xuôi mái. Cảnh vật như xa lạ nên nỗi buồn cũng chỉ gợn nhẹ vì thấy cảnh
sinh tình mà thôi.
Sóng và thuyền Quang Tuyết thì khác, nó mang hình ảnh
thân thương gần gủi. Tiếng nước vổ sát bên tai, mái chèo khua sát bên tai, tất cả
là màu sắc là của tuổi thơ. Màu sắc cúa tuổi thơ còn đó nhưng tuổi thơ đã đi
qua, đã trôi về một bến mơ nào đó như con thuyền sẽ về đâu không biết.
Nhà thơ đã đứng bên dòng sông xưa, dưới ánh trăng hiện
tại, có tâm trạng như chưa quay về đến đich vì dấu xưa bây giờ trở nên xa lạ:
Mong
nhớ nào chạm ánh trăng thơ
Soi
gì đêm đã lạc bước mờ
Ta
trở về như chưa hề tới
Bến
giang đầu hạnh phúc xa xưa
Đọc khổ thơ trên cho ta liên nghĩ đến nỗi sầu của bà
Huyện Thanh Quan: “Dấu Xưa xe ngựa hồn
thu tháo/ Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”. Khác chăng là Quang Tuyết không
mang nỗi sầu của một triều đại suy tàn mà mang nỗi sầu của một thế hệ qua đi. Nỗi
sầu của Quang Tuyết lớn hơn, rộng hơn và bình dị hơn.
Qua khổ thơ thứ ba Quang Tuyết nhớ đến “Người”. Người đã đi vào dĩ vãng, người
đã ở góc bễ chân trời:
Người
đã vượt dòng sông quê người
Ôm
tuổi xanh ngủ vội bên trời
Mặc
gió mùa cuốn đời mù mịt
Chòng
chành đưa hoa nến trôi xuôi
Người ở đây là ai? Có thể là người tình, có thể là người
thân, có thể một thế hệ sống với dòng sông năm xưa và cũng có thể là chính tác
giả. Người đã bị “gió mùa cuốn đi”.
Gió mùa là sinh kế, gió mùa là thời cuộc, gió mùa là khói lửa chiến tranh, gió
mùa tất cả sự vô thường của kiếp sông, nó đưa đẩy tuổi thơ như một đóa hoa
chòng chành trôi xuôi. Hình ảnh đóa hoa trôi xuôi đó bị “gió mùa cuốn đời mù mịt”
và đã “ngủ vội bên trời” buồn làm sao, da diết làm sao, có khi là đau khổ vì sự
“ngủ vui” cho ta liên nghĩ dến sự chết trong đời.
Qua khổ thơ chót Quang Tuyết mới cất những tiếng than
xé lòng:
Về
đây mong hay đợi người ơi
Vô
thường rồi một bước buông lơi
Nỗi
nhớ nào như mưa dầm thấm đất
Nát
con tim gãy quỵ thân đời
Nhà thơ quay về trong vô vọng vì “Về đây mong hay đợi người ơi” nghĩa là về không một niềm hy vọng
đoàn viên. Nhà thơ về để dỗ dành nỗi nhớ nhưng nỗi nhớ đã như “mưa dầm thấm đất” thì nó đã nhiểm sâu
trong tâm hồn, không còn ai hốt nước lên bàn tay được nữa. Bởi vì vậy câu thơ
cuối là sự gục ngã đớn đau: “Nát con tim
gãy quỵ thân đời”
Toàn bộ bài thơ như một tiếng kinh nhưng không phải là
tiếng kinh cầu. Đây là tiếng kinh tụng niệm nỗi sầu, vọng lên từ nỗi nhớ, vọng
lên từ linh hồn một người lạc lỏng bên dòng sông thân thương năm xưa. Bài thơ
như tiếng sóng trầm của bến nước bình yên, nhưng lại đồng vọng nỗi buồn điệp điệp
trong hồn ta và trong hồn vạn vật mà người thơ đứng cô đơn để mong và để đợi.
Đọc hai bài thơ “Lời
Kinh 2” của Trần Mai Ngân và “Kinh
Thơ” của Quang Tuyết, mỗi bài thơ mang một tâm sự khác nhau, môt phong cách
khác nhau.
Trần Mai Ngân thì sâu nhiệm, trầm lắng những ẩn dụ
trong chiều sâu tâm hồn, Quang Tuyết thì trải bày tâm tư bằng những dòng thơ se
lạnh như ngọn thu phong. Thế nhưng cả hai bài thơ đều như rất gần nhau, như hai
tiếng đàn
mang cung trầm cung bổng quyến luyến nhau làm đắm say
lòng người. Tôi đã đắm say nó nên tôi phải gióng lên tiếng trống, như tiếng trống
chầu để tỏ lòng ngưỡng mô, tuy biết rằng viết nhiều cho người đẹp đôi khi cũng
ăn đá của đời.
Châu
Thạch
Nhà thơ Trần Mai Ngân
LỜI
KINH (2)
Trú trong kinh Bát Nhã
Lời xưa và dáng em
Chim bay về lối cũ
Đậu lại khóc bên thềm...
Mùa Xuân sao lại mưa
Cây Sầu Đông trổ muộn
Chiều xanh gầy dấu xưa
Thương nhớ sao cho vừa
Tiếng chuông hồi huyễn mộng
Gióng lên tình hư không
Mây bay trôi vô vọng
Tôi nhớ người xa xăm...
Ai cho tôi trần gian
Chôn những nỗi âm thầm
Lấp vùi gần trăm năm
Tim tôi sầu rướm máu
Ai cùng tôi nương náu
Những rã rời nay mai
Bới tìm hoài vô vọng
Nguyện cầu đừng nhạt
phai...
Trần Mai Ngân
23-9-2018
Nhà thơ Quang Tuyết
KINH
THƠ
Chiều về bên dòng sông tuổi
thơ
Lắng hồn trong tiếng sóng
vỗ bờ
Hững hờ sao đò chiều xua
nước
Biết về đâu... Về đâu bến
mơ
Mong nhớ nào chạm ánh
trăng thơ
Soi gì đêm đã lạc bước mờ
Ta trở về như chưa hề tới
Bến giang đầu hạnh phúc
xa xưa
Người đã vượt dòng sông
quê người
Ôm tuổi xanh ngủ vội bên
trời
Mặc gió mùa cuốn đời mù mịt
Chòng chành đưa hoa nến
trôi xuôi
Về đây mong hay đợi người
ơi
Vô thường rồi một bước
buông lơi
Nỗi nhớ nào như mưa dầm
thấm đất
Nát con tim gãy quỵ thân
đời
Quang
Tuyết
Huế, chiều cuối đông
TẢN
MẠN CỦA CHÂU THẠCH
Bên Kinh Thơ bên Lời Kinh
Hai nàng khiến tớ giật
mình sợ thay
Thế nhưng đọc thật là hay
Tớ ngâm rượu ý chờ ngày
lên men
Viết cho đã tánh bon chen
Của con dế mọn, dế hèn mơ
cao!!!
Châu Thạch
1 comment:
Xin "tặng" ông Châu Thạch vài diều:
1. Tâm Kinh không phải là "quyển" mà là "bản văn" CIHỈ GỒM 262 CHỮ
2. Tâm Kinh khác với - Ðại Bát Nhã kinh (Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật kinh),
- Ðại Bát Nhã kinh (Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật kinh), từ năm gồm có 600 quyển,Trần Huyền Trang (600-664) đời Ðường, ngài có dịch
- BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ
3. Chữ Ba-la-mật, tiếng Phạn là Paramita, kinh sách gốc Hán gọi là « đáo bỉ ngạn » (đến được bờ bên kia)
Trong Tâm kinh, Ba-la-mật chú là câu này:" Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề. Tát bà ha"
Đây là phiên âm và bản dịch TÂM KINH, tặng ông:
TÂM KINH BÁT NHÃ
PHIÊN ÂM
Quán tự tại bồ tát hành thâm Bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh diệc vô vô minh tận; nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, bồ đề tát đỏa y Bát nhã ba la mật đa cố tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố vô hữu khủng bố; viễn ly điên đảo mộng tưởng; cứu cánh niết bàn, tam thế chư Phật y Bát nhã ba la mật đa cố đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề. Tát bà ha.
DỊCH BÁT NHÃ TÂM KINH
Khi Bồ tát Quán Tự Tại (Avalokitésvara) thực hành Bát nhã ba la mật sâu xa soi thấy rằng, có năm uẩn (skandha); và thấy năm uẩn đó không có tự tánh trong chúng .
“Này Xá lợi Phất (Sàriputra), sắc ở đây là không , không là sắc; sắc không khác không, không không khác sắc; sắc tức thị là không, không tức thị là sắc. Thọ, tưởng, hành và thức cũng vậy
Này Xá lợi Phất, hết thảy các pháp ở đây được biểu thị là không : chúng không sinh, không diệt , không cấu nhiễm, không không cấu nhiễm; không tăng, không giảm. Vì vậy, này Xá Lợi Phất, trong không không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức ; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc , thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới , cho đến (8) không có ý thức giới; không có minh, không có vô minh (9) không có minh diệt, không có vô minh diệt[6] cho đến không có tuổi già và sự chết, không có sự diệt tận của tuổi già và sự chết; không có khổ (10), tập, diệt, đạo; không có trí, không có đắc, và không có chứng[7], bởi vì không có đắc. Trong tâm của Bồ tát an trụ trên Bát nhã ba la mật không có những chuớng ngại;[8] và bởi vì không có nhũng chướng ngại trong tâm đó, nên không có sợ hãi, và vượt ngoài những tà kiến điên đảo đạt đến Niết bàn. Hết thảy chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai, do y trên Bát nhã ba la mật, mà chứng đắc giác ngộ viên mãn tối thượng.
“Vì vậy nên biết Bát nhã ba la mật là đại thần chú (mantram), là chú của đại minh huệ, là thần chú cao tuyệt, thần chú vô giá, có thể trừ diệt hết mọi khổ đau; đó là chân lý vì không sai lầm; đây là thần chú được công bố trong kinh Bát nhã ba la mật: gate, gate, pàragate, pàrasamgate, bodhi, svàha!” (Này Bodhi, đi qua, đi qua, qua bờ bên kia, qua đến bờ bên kìa, Svàha!). - (Tuệ Sỹ dịch)
@ Đặc biệt về câu này: "Đọc thơ là như vậy, không phải biện luận bằng “Tam Đoạn Luận” mà hiểu thơ, mà phải hiểu bằng mắt ta, bằng tai ta, bằng tâm ta, bằng tất cả giác quan của ta, thêm cả giác quan thứ sáu và bằng linh cảm trong ta nữa."
Ghê quá vậy. Giác quan thứ 6 là đoán trước chuyện tương lai? Khiếp
Trân trọng
Post a Comment