Phạm Đức Nhì
ÔNG ĐỒ: NHỮNG BỨC TRANH THƠ
Bài thơ Ông Đồ được đăng năm
1936 trên báo Tinh Hoa lúc tác giả của nó, Vũ Đình Liên, mới 23 tuổi. Ông là
người theo tân học, đậu Tú Tài năm 1932 (lúc 19 tuổi). Nhờ khả năng quan sát
sắc bén ông đã sáng tác được bài thơ mà theo Hoài Thanh: “Theo đuổi nghề văn mà
làm được một bài thơ như thế cũng đủ. Nghĩa là đủ lưu danh với đời.” (Thi Nhân
Việt Nam).
Hoài Thanh đưa ra những lời
khen ngợi trên và đã chọn đưa vào tuyển tập Thi Nhân Việt Nam chứng tỏ bài thơ
Ông Đồ của Vũ Đình Liên, dưới cái nhìn của đôi mắt thơ có nội lực sung mãn vào
hạng nhất thời bấy giờ, được đánh giá rất cao.
ÔNG ĐỒ
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Vũ Đình Liên
Tứ thơ:
Mỗi độ xuân về ông Đồ lại ngồi bên phố trổ
tài viết câu đối cho người qua, kẻ lại. Nhưng mỗi năm mỗi ít người thuê viết,
ông đồ ngồi lặng lẽ bên đường. Và năm nay không thấy ông đồ nữa.
Ý thơ:
Qua hình ảnh ông đồ tác giả
tỏ ý thương tiếc một nền Nho học đang lụi tàn dần theo năm tháng.
Ở đây ý và tứ khác nhau,
nghĩa là tác giả đã sử dụng phép ẩn dụ toàn bài. Ông không chơi bài cào, kiểu
ngửa mặt lớn nút ăn tiền, mà chọn ván bài xì phé trong đó con tẩy được dấu kín.
Con tẩy càng kín thì ván bài càng hấp dẫn và tay chơi (tác giả) càng có lợi
thế. Đến phút cuối cùng, con tẩy được lật lên, người đọc à lên một tiếng thích
thú. Từ lúc hiểu tứ đến lúc cảm thông được ý - chủ đích của tác giả khi viết
bài thơ - chỉ một tích tắc. Điều đáng nói là chính cái tích tắc ngắn ngủi đó đã
cho người đọc cái cảm giác sảng khoái như khám phá được một điều gì to lớn lắm.
Đọc xong đoạn cuối:
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông Đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Qua dòng liên tưởng của chính
mình người đọc thấy con bài tẩy đã được ngửa ra. Sự mất dạng của Ông Đồ giữa
phố Tết dẫn đến tâm trạng nuối tiếc một nền Nho học đang lụi tàn. Đây là một tứ
thơ hay, bao quát toàn bài, được vận dụng khéo léo, kín kẽ, không một tý sơ hở
để có thể dẫn đến những hiệu ứng phụ khiến người đọc có thể vặn vẹo, bắt bẻ.
Ngoài phép ẩn dụ, bài thơ Ông
Đồ còn có những cái hay sau đây:
Không có hội chứng nhàm chán
vần.
Một trong những hạn chế của
thể thơ trường thiên (ở đây là ngũ ngôn trường thiên) là hội chứng nhàm chán
vần. Mỗi câu vừa vặn 5 chữ, vần gieo 1/3 (trắc), 2/4 (bằng) rất đều đặn từ đầu
đến cuối khiến người đọc có cảm giác “ngán vần” nếu bài thơ quá dài. May mắn,
bài thơ chỉ có 20 câu; tuy vị ngọt thơ ca hơi “đậm đà” nhưng cảm giác nhàm chán
chưa kịp đến thì bài thơ đã hết.
Tứ thơ không bị phân tán.
Hạn chế thứ hai của thể thơ
trường thiên là tứ thơ phân tán. Bài thơ chia làm nhiều đoạn, mỗi đoạn 4 câu
độc lập, không có mắt xích nối các đoạn với nhau nên không có dòng chảy của thơ.
Thay vào đó chỉ có những vũng thơ, những hố thơ riêng biệt; mỗi vũng, mỗi hố
thể hiện một mảnh tâm trạng của tác giả. Người đọc phải đến từng hố thơ để cảm
nhận từng mảnh vụn tâm tình đó. Tứ thơ vì thế bị phân tán. Bài thơ Ta Về của Tô
Thùy Yên đã vướng phải hạn chế này. Ông viết:
Ta về như tứ thơ xiêu tán
là rất đúng. Bởi bài Ta Về có
đến 124 câu, 31 đoạn; tứ thơ chủ đạo hoàn toàn bị phân tán, manh mún.
Bài thơ Ông Đồ về hình thức
không có những mắt xích nối các đoạn thơ với nhau nhưng may mắn (lại may mắn),
không kể đoạn đầu giới thiệu ông Đồ, 4 đoạn còn lại là chuỗi hình ảnh nối tiếp
nhau theo thứ tự thời gian nên người đọc vẫn có được sự chú tâm cần thiết thả
hồn theo dòng thơ – chính là dòng thời gian –
để cảm được tâm tình của tác giả.
Áp dụng thành công nguyên tắc
“bày tỏ, không kể lại” (show, not tell): tác giả dùng ngôn từ đơn giản của đời
thường, tạo ra những hình ảnh gần gũi, quen thuộc để người đọc có thể cảm nhận
trực tiếp, không qua sự biện giải dài dòng của lý trí.
Cái hay nữa của bài thơ là
“thi trung hữu họa”; họa ở đây không phải chỉ khi ẩn, khi hiện mà mỗi đoạn thơ
đã được tác giả vẽ thành một bức tranh sống động.
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bức tranh nhìn từ xa: đám
đông vây quanh một ông già mặc áo chùng thâm, đội khăn đóng (ông Đồ) đang lúi
húi viết; mặt ông Đồ và những người vây quanh đều lờ mờ, không rõ nét. Đây đó
một vài cây đào đang nở hoa, báo hiệu xuân sang, tết đến.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay
Bức tranh cận cảnh: cũng đám
đông vây quanh ông Đồ, mặt tươi vui, chú tâm theo dõi nét bút (lông) của ông
trên giấy đỏ. Thân hình và mặt mọi người đều rõ nét
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Bức tranh nhìn hơi xa: ông Đồ
ngồi trên chiếu, bên cạnh là xấp giấy màu đỏ (nhạt hơn màu giấy ở bức tranh 2),
bút lông và lọ mực chỉ còn một ít mực đọng ở cuối lọ. Chỉ có 1, 2 người thờ ơ
đứng xem, không ai thuê viết.
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Bức tranh nhìn gần hơn một
tý: ông Đồ vẫn ngồi trên chiếu dưới mưa phùn lất phất, bên cạnh lờ mờ xấp giấy
đỏ, bó bút lông và lọ mực. Người đi đường qua lại không ai đến gần chiếc chiếu
của ông Đồ. Cảnh thật tiêu điều.
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Bức tranh cận cảnh: người đi
chơi xuân qua lại tấp nập trên đường; khoảnh đất ngày xưa ông Đồ thường ngồi,
nay bỏ trống; một người không rõ mặt (tác giả) đứng cách mươi bước, mắt đăm
chiêu nhìn khoảnh đất trống. Thật ra, nếu vẽ đúng ý của đoạn kết thì phải có
thêm dấu chấm hỏi ngay trên khoảnh đất trống ấy.
Sau đây là vài khuyết điểm
nho nhỏ trong bài thơ Ông Đồ mà người viết bài này muốn đưa ra để bàn luận:
Cách gieo vần: phải nhìn nhận
tác giả rất cố gắng và rất khéo trong việc chọn chữ và gieo vần để giảm bớt vị
ngọt của thơ ca. Trong 10 đôi chữ vần với nhau chỉ có 3 đôi là chính vận (đâu
sầu, đấy giấy, hay bay), 7 đôi còn lại là thông vận. Tuy vậy vị ngọt, mặc dầu
chưa đến độ nhàm chán, đối với người đọc khó tính, đã hơi “đậm đà”. Tại sao ông
không bỏ hẳn vần 1/3, chỉ giữ vần 2/4 như Ta Về của Tô Thùy Yên chẳng hạn? Hỏi
tức là đã trả lời. Lúc ấy cách gieo vần của Thơ Mới (ảnh hưởng Pháp) là như
thế. Một nhà thơ cự phách như Tô Thùy Yên mà đến gần 50 năm sau (1985), trong
Ta Về mới áp dụng phép gieo vần ấy, thì làm sao có thể trách Vũ Đình Liên được.
Ông đã chọn thể thơ mà ở thời của ông được coi là mới nhất, phóng khoáng nhất.
Nhưng dẫu sao cái vị ngọt hơi “đậm đà” đã tan vào bài thơ của ông, và ông, chứ
không ai khác, phải nhận trách nhiệm
(một cách oan ức!) về khuyết điểm nho nhỏ đó.
Theo tôi, 2 câu đóng góp ít
nhất và giảm giá trị nghệ thuật của bài thơ nhiều nhất, là 2 câu cuối:
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Nhận định này rất khác với
những bài bình Ông Đồ trên sách báo và internet ở trong nước; nó cũng khác với
nhận định của vài nhà phê bình văn học ở hải ngoại. Sau đây là lý do khiến tôi
đưa ra nhận định ấy.
Khi đọc xong câu 18:
Không thấy ông Đồ xưa
con tẩy của ván xì phé đã
được lật lên, ẩn dụ đã được giải mã, không cần phải giải thích thêm nữa. Bằng
khả năng liên tưởng của mình người đọc đã có thể nhận ra chủ ý của tác giả: nền
Nho học đang lụi tàn. Cái câu hỏi “Những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ?”
là không cần thiết, là thừa. Nếu nói tác giả dùng cái câu hỏi “hỏi để mà hỏi
vậy thôi” với mục đích là, qua cái giọng “bàng hoàng, thảng thốt” trong câu hỏi
ấy, truyền cho người đọc cảm giác tiếc
nuối cái nền Nho học kia, thì cũng không hợp tình lắm. “Bàng hoàng, thảng thốt”
dùng cho trường hợp của Tú Xương trong Sông Lấp thì đúng, bởi ông Tú cũng chính
là ông Đồ, là máu, là thịt của nền Nho học; mất (hình ảnh) ông Đồ, đối với ông,
cũng đau đớn như mất một phần thân thể, một phần tâm hồn của mình. Còn như Vũ
Đình Liên, theo tôi, chỉ bâng khuâng tiếc nuối khi thấy mất đi một nét đẹp văn
hóa của dân tộc, bởi ông – một người theo tân học – đối với ông Đồ, đối với nền
Nho học, chỉ là kẻ bàng quan, là người ngoài cuộc; câu hỏi với cái giọng tha
thiết ấy có vẻ hơi “lạc điệu”. Hơn thế nữa, nó làm bức tranh thứ 5 vẫn cồm cộm
chữ nghĩa; ngôn ngữ chưa hoàn toàn tan biến, chưa thực sự hóa thân vào trong
tranh.
Có lần cô cháu dâu người miền
nam nấu đãi ông bác chồng mới ở Mỹ về thăm, một nồi chè xôi nước. Con nhỏ nấu
ngon thiệt; tôi ăn một lúc hết 4 viên mà vẫn còn thòm thèm. Nhưng đến viên thứ
năm thì kẽ răng tôi bị một miếng gì đó dính vào. Thì ra nó nấu chè bằng đường
chén làm từ mía; người làm đường không để ý nên sót lại chút bã mía trong chén
đường. Dù vậy, chè xôi nước hôm đó vẫn là bữa ăn rất ngon tôi còn nhớ đến ngày
hôm nay.
Vâng! Hai câu kết của bài thơ
chính là miếng bã mía trong nồi chè xôi nước. Người đọc có cảm giác hơi tiêng
tiếc. Chỉ một chút xíu nữa thôi là những bức tranh thơ có thể hoà nhập trọn vẹn
vào tâm hồn người đọc, bài thơ có thể gọi là toàn bích.
Tóm lại, nhờ sự nhạy bén của
tác giả (và một chút may mắn) bài thơ Ông Đồ đã tránh được hai khuyết điểm lớn
của thể thơ trường thiên: hội chứng nhàm chán vần và tứ thơ phân tán. Thêm vào
đó, nó lại có thể thủ đắc một lúc 3 “tuyệt chiêu” của thơ ca là ẩn dụ tài tình,
bày tỏ, không biện giải (show, not tell), và thi trung hữu họa. Tôi xin mạnh
dạn gọi nó là một tuyệt tác. Nó không phải chỉ nổi bật khi so sánh với những
bài thơ cùng thời, không phải chỉ nhận được những lời ngợi khen từ những nhà
phê bình văn học sử dụng cái thước đo
giá trị thơ ca của bối cảnh văn học những năm 1930s, 1940s. Ngay lúc tôi viết
bài này (2013), sau gần 80 năm lăn lóc trên thi đàn, nó vẫn sống trong lòng
người yêu thơ. Những nhà phê bình văn học, dù khó tính, “bới lông tìm vết” bằng
những chuẩn mực giá trị của thời đại mới đi nữa, vẫn phải công nhận Ông Đồ là
bài thơ rất hay. Ông Đồ không chỉ là hiện tượng, là cái mốc của một thời điểm
lịch sử như Tình Già của Phan Khôi, như mấy bài thơ của TTKh, mà bằng giá trị nghệ
thuật nội tại, bằng cái đẹp chân chất thơ ca, đã biểu lộ một sức sống mãnh
liệt, sẽ còn ngất ngưởng trên thi đàn, làm xao xuyến hàng triệu trái tim những
người yêu thơ …nhiều chục năm nữa. Tôi rất tự tin khi đưa ra lời tiên đoán này.
Đúng hay sai? Chỉ thời gian mới có thể trả lời.
PĐN
No comments:
Post a Comment