Nếu
định nghĩa rộng, có lẽ không ai trên cõi đời thoát khỏi hai chữ tình
yêu. Đặt định nghĩa tình yêu trong phạm vi rung động giới tính, có lẽ
cách này cách khác người nào cũng vướng lưới tình ngay cả các bậc chân
tu. Nếu bậc chân tu nào lỡ vướng mà vượt thắng thì thành chân chân tu, còn thua ngã thì thành giả chân tu. Nếu thua cuộc luôn thì từ biệt nhà Chúa nhà Phật, “con về cõi tục con theo tiếng đời.”
Tình
yêu giới tính gồm một chủ thể và một khách thể, hoặc có khi nhiều khách
thể. Nếu khách thể không biết chủ thể đang để ý đến mình thì gọi là
tình đơn phương. Dĩ nhiên đã là đơn phương thì không mong có đáp trả.
Nếu không đơn phương, nghĩa là chủ thể cách nào đó cho khách thể biết
mình đang “ngắm nghía” đối tượng thì khách thể sẽ có hai thái độ, hoặc
chấp nhận hoặc không chấp nhận. Nếu tự ý không chấp nhận, hoặc không thể
chấp nhận do trở lực bên ngoài, thì mối tình của hai người thành tình
tuyệt vọng:
Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu
Mà người gieo thảm như hầu không hay.
(Khái Hưng, Tình tuyệt vọng)
Hai
thứ tình đơn phương và tuyệt vọng thường gây đau đớn cho chủ thể, lắm
khi đến chủ thể tự hủy hoại bản thân. Tình không thể chấp nhận do trở
lực bên ngoài còn gây đau đớn nhiều hơn, cho cả đôi bên chủ cũng như
khách thể. Thứ tình đau đớn này thường lại là chủ đề của biết bao bài
thơ sầu cảm.
Em ơi lửa tắt bình khô rượu
Đời vắng em rồi say với ai.
(Vũ Hoàng Chương, Đời vắng em rồi say với ai)
Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy
Ngàn năm chưa dễ đã ai quên.
(Thế Lữ, Lời than thở của nàng mĩ thuật)
Chị ba con
Em tìm thấy lá
Xòe tay phủ mặt chị không nhìn
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể.
(Hoàng Cầm, Lá diêu bông)
Nhạc
sĩ Vũ Thành An trước khi bước chân lên bàn Thánh lãnh nhận chức Phó tế
vĩnh viễn đã sửa lại lời một ca khúc của ông, từ “Con đường em đi đó …
đúng hay sai em ơi?” thành “Con đường em đi đó … đúng đấy em ơi!” Điều
kỳ lạ không thấy ai bàn tới là, nếu “con đường” “người ấy” đi là đúng
thì đâu cần nhạc sĩ phải vất vả ca hát lên làm gì! Phải có cái gì “không
đúng” thì nhạc sĩ mới phải đau buồn nhỏ lệ than khóc. Do đó, dù sửa hay
không, tâm sự của nhạc sĩ cũng đã quá rõ ràng. Và việc sửa chữa lời ca
khúc sau bao nhiêu thăng trầm của cuộc sống chứng tỏ tận đáy lòng, nhạc
sĩ vẫn chưa quên được chuyện cũ người xưa, vẫn “cầm chiếc lá đi đầu non
cuối bể” như thi sĩ Hoàng Cầm. Đồng thời, người thưởng ngoạn vẫn không
cho chuyện sửa lại là đúng, vì sửa làm sao được một cuộc tình đã đổ vỡ,
hốt làm sao được chén nước đã đổ đi?
Nếu
giữa chủ thể và khách thể, hay nhiều khách thể như trường hợp của ông
già sáng lập báo Playboy với ba cô tình nhân chưa đáng tuổi con ông, rồi
với hai cô khác chỉ đáng tuổi cháu, thỏa thuận trao đổi tình yêu và đi
đến hòa hợp chung sống, lại xẩy ra hai trường hợp: chung sống hạnh phúc
và không hạnh phúc. Chẳng có vấn đề gì để thảo luận khi cuộc tình chung
sống hạnh phúc đến đầu bạc răng long. Có vấn đề để nói đến là ở chỗ tại
sao cuộc tình thỏa thuận đến chung sống lại không có hạnh phúc để phải
chia tay tan vỡ? Thống kê cho thấy con số li dị của xã hội Mỹ khá cao.
Theo tạp chí divorcemagazine.com
trên mạng, năm 2005 tại Mĩ đã có 2.230.000 người li dị, tức là 3,6% dân
số. Tỉ lệ này giảm xuống so với trước đó, có thể vì tỉ lệ hôn nhân cũng
giảm từ 7,8% theo mỗi ngàn người xuống còn 7,5% trong năm đó. Những vụ
li dị ầm ĩ nhất thường xẩy ra trong giới tài tử ca sĩ tại Holywood gọi
chung là giới celebrities
(tài danh), như vụ của Britney Spears, hoặc trong giới chính trị có danh
phận, gần đây nhất là của cựu Thống đốc California Schwarzenegger. Tại
sao những người tài danh này yêu nhau đắm say đến thế mà khi chia tay
nhau cũng đau đớn đến thế?
Không
phải chỉ trong cuộc sống có văn minh mới có tình yêu. Một chương trình
về một bộ lạc Nam Mỹ Amazon trên kênh Discovery trình bày một cô dâu tóc
xoắn da màu đồng đất mười sáu tuổi cho biết cô bị mẹ cô buộc phải lấy
một người anh em con bạn dì ruột ở làng kế cận, trong khi cô đã có người
yêu “có thể xem như là chồng” tại quê quán cô. Anh chồng tương lai mười
bảy tuổi của cô dâu đó, chẳng yêu thương gì cô em họ anh ta sắp cưới,
cũng nói, “Cứ nghe lời mẹ lấy cô ta đi rồi sau này hẵng kiếm người yêu
khác!” Như thế cho thấy chuyện yêu đương không phải chỉ là sản phẩm của
thế giới văn minh mà có lẽ là căn tính của con người. Khi đến tuổi, hai
người khác phái nào đó gặp nhau tự nhiên cảm thấy rung động muốn xáp lại
gần nhau. Đó cũng là một đặc tính phân biệt tình yêu con người với việc
truyền giống của các loài khác. Tình yêu của con người không hoàn toàn
chỉ để truyền giống. Nó là một sự rung động mà không ai định nghĩa được,
như câu thơ của Xuân Diệu, quen thuộc trở thành gần như ca dao, Làm sao định nghĩa được tình yêu.
Trong
các ngôn ngữ mà tôi được biết, có lẽ không có từ ngữ nào nói đến sự
tương quan giữa hai người yêu nhau và chung sống với nhau chứa đựng
nhiều ý nghĩa cho bằng cụm từ tình nghĩa vợ chồng
của tiếng Việt chúng ta. Tình là tình yêu đôi lứa; nghĩa là nghĩa vợ
chồng. Hai thứ tình và nghĩa trộn lẫn lại làm thành phân bón, làm thành
lương thực nuôi sống cuộc sống hôn nhân. Hôn nhân không tình yêu không
thực sự là hôn nhân vì đã thiếu yếu tố không thể thay thế khi tuyên lời
hôn ước: yếu tố tự do. Nếu có tự do, không hai người nào chẳng hề có
chút tình ý với nhau lại có thể thành hôn với nhau. Nếu thành hôn không
vì tình yêu, chắc chắn cuộc hôn phối đó chỉ vì một lí do nào khác: tư
lợi, tiền bạc, cưỡng bức vv. Những cuộc hôn nhân cưỡng ép ngày xưa, và
bây giờ thỉnh thoảng vẫn còn, có thể tồn tại vì những ràng buộc khác:
tai tiếng như khi có thai với nhau ngoài chủ ý, uy thế của gia đình đôi
bên, uy lực của xóm làng vv. Không có những ràng buộc ngoại tại đó, chắc
chắn người ở phía bị cưỡng bức sẽ vùng thoát khỏi cuộc hôn nhân ngay từ
lúc ban đầu.
Hôn
nhân giữa đối thể và khách thể trong văn hóa Việt Nam chúng ta như thế
khởi đầu bằng “tình” và gắn bó bằng “nghĩa.” Nàng Kiều khi phải bán mình
chuộc cha biết “tình” nàng với chàng Kim giờ đây đã dứt, chỉ còn lại
chút “nghĩa” cũng phải phụ phàng, nên đã nhờ cha nàng trả nghĩa:
Lậy thôi, nàng lại thưa chiềng,
Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Chút
“nghĩa” đó chính là nét đặc trưng trong nền văn hóa dân tộc chúng ta.
Cha mẹ chúng ta thường khuyên bảo con cái, “Vợ chồng sống với nhau phải
có tình có nghĩa.” Khi bình thường, an vui cũng như sầu khổ, vợ chồng
sống với nhau bằng “tình.” Khi một trong hai người bệnh hoạn tai ương,
hoặc gây nên lầm lỗi, nếu tình yêu phôi pha hoặc không còn nữa, vợ chồng
vẫn sống bên nhau bằng “nghĩa.” Nói cách khác, tình là phần việc của
con tim, nghĩa là phần việc của lí trí. Con tim và lí trí đi chung với
nhau để cuộc sống vợ chồng bền chặt. Cũng vì thế, mức độ li dị ngày
trước trong hôn nhân Việt Nam gần như không có. Người chồng có thể hời
hợt khi gặp người vợ không như ý bằng cách chung chạ với người khác, vợ
lẽ nàng hầu, nhưng vẫn không bỏ bê người vợ đang làm buồn lòng mình.
Người vợ khi gặp phải chồng không ưng ý, vẫn sống chung trong một mái
nhà, cho dẫu nhiều khi không còn chung chăn chung gối, để gia đình không
bị đổ vỡ, nhờ vào chút “nghĩa phu thê.”
Chàng ơi phụ thiếp làm chi,
Thiếp là cơm nguội để khi đói lòng.
(Ca dao)
Tình
nghĩa vợ chồng Việt Nam là thế đó. Người vợ bị chồng bỏ bê, mang lấy
chút nghĩa cùng chồng, đành cam chịu số phận làm “cơm nguội” chỉ để chờ
khi chồng “đói lòng” ngó ngàng đến. Dĩ nhiên, trong thời đại nam nữ bình
quyền này, không còn ai chấp nhận cực đoan “chồng chúa vợ tôi” này nữa.
Thay vào đó, người ta dùng sách lược “ông ăn chả, bà ăn nem,” cũng là
một cực đoan khác. Khi một trong hai người của một đôi vợ chồng gây nên
bất cứ điều gì không thuận ý cho người kia, hai người hết “tình” nhưng
lại không chút ràng buộc nào về “nghĩa” để cùng nhau tìm một bài thuốc
dù tạm bợ hầu nuôi dưỡng cuộc sống gia đình. Mà cho dẫu hai người có
muốn hòa giải để sống với nhau vì “nghĩa,” xã hội cũng không cho họ có
thì giờ suy nghĩ để giải quyết với nhau. Xem trường hợp gần nhất của gia
đình vợ chồng Schwarzenegger thì rõ. Khi đổ bể chuyện lăng nhăng của
người chồng, truyền thông không để cho người vợ, bà Maria Shriver, kịp
thì giờ tính toán chuyện gia đình riêng tư. Báo chí, truyền thanh,
truyền hình đã nhao nhao đặt “cày trước trâu,” thi nhau đưa ra câu hỏi
liệu họ có đem nhau ra tòa li dị hay không? Chẳng một ai thắc mắc liệu
họ có làm hòa với nhau được không, có tha thứ lỗi lầm cho nhau được
không, có giữ với nhau chút “nghĩa” dù nay “tình” có thể đã hết rồi
không? Cùng một hoàn cảnh như vậy với vụ việc hai vợ chồng Dân biểu
Weiner.
Khác
biệt giữa văn hóa Tây và Đông một phần ở chỗ đó. Cha mẹ chúng ta phần
lớn đều hết sức ngăn chặn các cuộc tình đổ vỡ bằng lời khuyên, “Thôi thì
một sự nhịn, chín sự lành,
nhường nhịn nhau đôi chút để phúc lại cho con cho cháu.” Con cháu chúng
ta sống tại quê hương thứ hai này ngày nay chỉ biết chữ “tình” mà không
hề biết đến chữ “nghĩa.” Vì thế, khi không còn vui vẻ chung sống với
nhau, họ li dị nhau dễ dàng không một chút xót xa. Văn hóa Việt Nam
không nằm ở chỗ gặp khi con gái gốc Việt lập gia đình với con trai gốc
Mĩ hay ngược lại, cha mẹ người gốc Việt buộc phía bên kia phải mặc trang
phục Việt cũng áo thụng khăn đóng, mang lễ vật kiểu Việt mâm lớn mâm
nhỏ, cau trầu, trà rượu, heo quay. Văn hóa cũng không nằm ở chỗ buộc
phía bên kia phải “lạy giàng thờ” để chứng tỏ phía bên kia đã thuận lấy
phía Việt làm mực thước. Nó nằm ở chỗ làm sao cho cả đôi bên biết được
hôn nhân theo văn hóa Việt Nam chúng ta là vợ chồng lấy nhau vì “tình,”
chung sống vì “nghĩa.” Hiểu được hai chữ này theo ý nghĩa thâm sâu của
nó là sống trọn vẹn tình vợ chồng theo văn hóa chúng ta. Một khi đã có
“tình” và có “nghĩa,” các cuộc hôn nhân sẽ không bao giờ “hết thuốc
chữa” đến nỗi phải chia tay không hề quay mặt lại. Mà cho dẫu tệ hại đến
chỗ phải chia tay, hai người đã một thời chung chăn chung gối chắc chắn
cũng không đến nỗi trở nên hai kẻ thù “không đội trời chung,” “nhìn mặt
nhau không thẳng,” mà vẫn còn giữ với nhau một chút “nghĩa” nào đó,
không thể “cạn tàu ráo máng” với nhau.
Tay bưng đĩa muối chấm gừng,
Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau.
(Ca dao)
Thế
đấy, vợ chồng như “gừng cay muối mặn” luôn luôn khắng khít bên nhau,
như chim với rừng không thể có bên này không có bên kia:
Chim xa rừng thương cây nhớ cội,
Người xa người tội lắm người ơi,
Thà rằng không biết thì thôi,
Biết nhau mỗi đứa một nơi sao đành.
(Ca dao)
Chất
keo gắn bó cuộc sống vợ chồng trong nền văn hóa Việt Nam chúng ta chính
là hỗn hợp “tình” và “nghĩa.” “Tình” để yêu thương nhau và “nghĩa” để
chịu đựng nhau. Mất đi một hợp chất, keo không còn dính nữa, khác gì xi
măng không có nước.
Nhưng,
làm sao giải thích được ý nghĩa thâm sâu của hai chữ “tình” và “nghĩa”
cho thế hệ trẻ đang quay cuồng như thác đổ trong bão tố của chủ thuyết
vật chất và thế tục đang tìm cách chế ngự mọi ngóc ngách của cuộc sống
ngày nay trên toàn thế giới, cách riêng trên đất nước Mĩ quê hương thứ
hai này?
Trần Hữu Thuần
jbtranthuan@hotmail.com
No comments:
Post a Comment